Phần 6 : Hóa Phàm 1
Tại một nơi hoang vu hẻo lánh, dưới cái ánh sáng mờ mờ hắt từ trên trời xuống, màn sương đêm như một tấm áo bạc khoác lên toàn bộ nơi này và các loài ăn đêm đang rục rịch cho một cuộc săn và bị săn sắp diễn ra . Một con hổ lớn đang khẽ rình mồi và từ từ mò tới bên một dòng thác, ở đó một người đang ngồi im thin thín. Nó rón rén tới gần rồi chuẩn bị vồ thì bỗng cả người nó như bị một áp lực vô hình đè xuống cực lớn, hổ ta có cảm giác chỉ cần mình tiến thêm chút nữa thì chắc chắn sẽ bị ăn tươi nuốt sống. Nó khẽ nuốt ngụm nước bọt rồi lui lại về phía sau rồi mất hút. Các loài ăn đêm cũng tránh xa cái thác nước này, người ngồi ở đó như một ảo ảnh, lúc mờ ảo, lúc chân thực đến lạ, như chúng ta ném một viên đá vào mặt hồ, chúng dập dềnh, lăn tăn rồi lại yên lặng. Người này khẽ đứng lên, đôi mắt người này sâu như biển chất chứa muôn vàn thăng trầm, khắp cơ thể của người này dần lưu chuyển từng làn khí khiến không khí xung quanh dần bị bóp méo lại, khẽ há miệng hút thật mạnh những làn sương mù xung quanh dần bị hút mạnh cuồn cuộn đi vào miệng người này. Khẽ hà hơi ra một nhịp rồi người này quay người lại. Đó chính là Bác Cổ, lúc này Bác chỉ còn là hư hồn, không hề có thân xác, từ lần đại chiến trước, thân xác của Bác đã bị hủy hoàn toàn : hai cánh tay đã bị nổ tung, ở bụng là một vết thương cực nghiêm trọng, máu trong người cũng đã cạn kiệt, nhưng may mắn được Lão Tăng đưa về bảo quản nên chưa có gì phải lo lắng. Bác biết đây là lúc quan trọng, bước ngoặt trong cuộc đời và con đường tu luyện của mình :” Phá rồi lập lại “. Và Bác phải trùng tu lại hồn phách của mình lần nữa, lần này Bác không được phép sai lầm. Bác khẽ đưa bàn tay lên, các dòng chú màu vàng đen hiện lên. Bác nhìn qua rồi khẽ nói:
- Niết Bàn Kinh, sơ thừa hóa phàm, mình muốn sống lại, thì phải thấu ngộ tất cả nhân sinh trong cõi người. Lấy đó làm nền tảng thì mới chuyển nghịch tử thành sinh.
Bác nắm bàn tay lại rồi xoay người biến mất. Ở tại một vùng thị xã biên giới gần Campuchia sau một cơn mưa sáng sớm, nơi này tấp nập những đoàn người buôn bán qua lại với nhau và những dòng người từ những vùng quê ở xa chở hàng lên buôn bán :
- Anh hai này, mua bánh tráng dừa đi anh, đặc sản ở miền Trung đó.
- Ê thằng kia, trộm của bà đòi chạy hả.
- Này nghe tin có người vừa chết đó.
Những âm thanh ồn ào tấp nập cứ thể diễn ra, khiến cho nơi này sôi động hẳn lên, một bóng người mặc quần áo bà ba đen đã bạc màu, lẫn các bùn đất, tóc dài buộc phía sau, bên ngoài lại khoác một tấm áo mưa bằng rơm và lá dừa khô, người này đội một cái nón lá đã rách. Đó chính là Bác. Bác vốn dĩ không sợ ánh nắng mặt trời và hiện hữu ngay giữa ban ngày là nhờ Niết Bàn Kinh. Bác phát hiện khí Niết Bàn giúp hư hồn có thể tồn tại ngay giữa ban ngày và không cần phải lo lắng về ánh nắng của mặt trời và tồn tại như có thân xác đồng nghĩa với việc Bác vẫn có thể cầm nắm, tác động lên vật chất. Bác tới đây muốn hóa thành một người thầy thuốc, chính tay mình quyết định sự sinh tử của người khác. Đúng lúc này, Bác nghe thấy tiếng của mọi người xung quanh và họ đang di chuyển về một hướng :
- Nhà phú ông Điền lại có người lên chết nữa rồi, chả biết làm sao. Mau tới đó xem sao.
Bác cũng nghe vậy, thì chỉ mỉm cười rồi đi theo dòng người tới hướng nhà của phú ông Điền. Bác nhìn thấy giữa sân là một đứa trẻ đang nằm im, miệng trào bọt trắng và máu, mắt đã chảy máu vì và các sợi tơ máu đã nổ tung, tay chân lại có dấu như bị tím, các đầu ngón tay lại như bị người ta dùng búa dập vào. Một người đàn ông khá thấp lại có một chùm râu như dê ở dưới cằm nheo mắt nói:
- Hừ lại thêm một đứa chết, bây coi nó trưa nay ăn gì rồi nói lại tao.
Những người xung quanh lắc đầu nói:
- Hình như là người ở của nhà ổng đó.
- Tội thật , chẳng biết sao mà chết.
Một người chen ngang vào rồi nói:
- Tôi có học thuốc, để tôi xem.
Mọi người vội tránh đường cho người này đi vào, người này bóp miệng của đứa trẻ ra để xem khoang miệng thì một làn hơi từ đó bay ra, người này hít phải hơi này thì sắc mắt say sẩm và tái lại, rồi ngã xuống đất, miệng lại sủi bọt mép, những người khác thấy vậy sợ hãi lùi ra xa. Bác lắc đầu chen lên rồi lấy một khúc củi rồi bóp miệng người này rồi nhét ngang vào trong để tránh người này cắn trúng lưỡi, sau đó Bác lên tiếng:
- Có ai có kim châm, hoặc đại loại vậy không. Ai to khỏe xin lại đây giữ hộ, để tôi cứu chữa.
Ba người đàn ông lực lưỡng đi tới đè lên người này và một người phụ nữ đưa ra một túi đỏ nói :
- Không biết kim thêu có dùng được không ạ?
Bác gật đầu, rồi cầm lấy rồi lấy ra ba cây kim rồi dùng nó đâm lên ba huyệt đạo ở trên đầu rồi Bác lại dùng tay từ từ ấn ở vùng bụng rồi đẩy ngược lên. Bác nói :
- Lấy cho tôi ít đất sét thấm nước và một cây đũa.
Những người xung quanh vội đi tìm rồi đưa chúng cho Bác, Bác cầm lấy rồi dùng đất sét trát lên trên cây đũa rồi dùng nó đưa vào miệng của người này, Bác lấy thêm bốn cây kim đâm vừa phải vào các huyệt đạo ở ngực và cổ. Bác dùng tay bứt một lọn tóc của người này rồi quấn quanh ngón tay rồi đưa ngón tay đó vào miệng rồi móc. Người này bỗng như một con cá giãy lượn sóng, cả người dẫy lên, nâng bụng lên rồi mở miệng thật to nôn ra. Bác vội rút chiếc đũa và các kim châm trên người rồi dùng tay vỗ lên trán rồi đẩy xuống dần sau gáy . Người này phun ra một ngụm máu đen và đầy mùi hôi tanh, rồi thở dốc, miệng vẫn còn chảy máu, các vết châm cũng chảy ra máu đen, Bác đưa tay đón lấy một cốc nước rồi đưa cho người này súc miệng, phun ra hết bùn đất trong miệng. Bác vỗ vai người này rồi khẽ tới gần thi thể của đứa trẻ, Bác nhìn rồi khẽ dùng tay ấn vào vùng mắt thì thấy nó cương phù lên như một quả bóng bàn, có cảm giác như chỉ cần dùng lực sẽ nổ tung. Bác khẽ lắc đầu rồi nói :
- Đứa trẻ tội nghiệp này chắc đã ăn trúng nấm mẫn cụt.
Người kia lúc này đã hơi khỏe lại, nhìn Bác rồi nói:
- Nó là nấm gì vậy thưa ông?
Bác khẽ lắc đầu:
- Một loại nấm mọc dại ở trong rừng, thường là mọc trên các xác chết của loài có độc rồi hấp thụ lượng độc tố trong đó. Nấm này có hình dạng như một quả trứng, thân thấp, lại có màu sẫm nâu, không bắt mắt dễ khiến người nhìn tưởng không có độc. Ăn vào thì chỉ có phá máu, mắt bị chèn ép và sưng phù, cái chết không được dễ chịu.
Phú ông Điền kia nghe vậy thì nói:
- Hầy, đứa nhỏ này chắc là lại tiếc tiền, không dám ăn cơm, nên mới vào rừng tìm đồ để ăn. Thôi, ta cho thêm tiền để người thân nó về làm ma chay với coi như là cho người nhà nó làm vốn.
Nói rồi ông ta đi vào bên trong và mấy người ở trong nhà ông ta mặc đồ kín, quấn khăn và bao tay nâng cái xác rồi quấn vào một cái chiếu chờ người thân nó lên nhận về. Bác nhìn quanh thì thấy một hình bóng đứng thẫn thờ, Bác nhìn nó rồi đi tới, Bác truyền âm :
- Cháu có điều gì muốn nói sao?
Đứa trẻ nhìn Bác với ánh mắt đầy đáng thương rồi chợt biến mất, Bác giật mình rồi định đưa tay chộp lấy nhưng không kịp. Bác nhìn về ngôi nhà của phú ông Điền rồi nheo mắt lại :
- Có kẻ trong nhà của ông ta dùng thuật thâu hồn phách , đã cưỡng ép bắt hồn phách của đứa nhỏ này.
Bác cũng không định vào tìm hiểu vì đây là giữa ban ngày, tự ý xông vào nhà người khác với cái lý do đó thì không được. Bác lặng lẽ quay người đi rồi thì người khi nãy chạy theo nói:
- Thầy chờ chút , chờ tui đi với.
Bác quay lại nhìn người này rồi hỏi :
- Anh có chuyện gì
Người đàn ông nói
- Tôi thấy anh y dược cao tay nên muốn mời anh về làng chữa bệnh cho dân làng tui.
Bác nheo mắt lại rồi nhìn anh ta , khiến anh ta lúng tung nói:
- Thưa thầy là thế này, dân ở làng tui đa số đều nghèo, đường xá xa xôi không tới được thị xã này chữa bệnh. Mà tôi ngu dốt lại được dân làng tin tưởng góp tiền cho đi học thuốc, mà chẳng tiến bộ được bao. Nên mong thầy rủ lòng thương mà tới làng chữa bệnh cho họ. Tuy nghèo nhưng vẫn sẽ trả đủ tiền.
Bác nhìn anh ta hồi lâu rồi nói:
- Đi đi.
- Hả?
- Ta nói anh đi trước dẫn đường đi, ta theo sau.
- Dạ dạ, để con thuê cái xe ngựa đưa thầy về. Không thể để thầy đi bộ được.
Bác nhìn anh ta rồi nghiêm mặt tỏ vẻ không hài lòng :
- Để tiền đó mà lo cho cho dân làng, đi ngựa từ đây xuống chỗ anh cũng tốn 5 nghìn đồng, lấy đó mua gạo cho người khó khăn thì sẽ ý nghĩa hơn, ta còn sức thì sẽ đi bộ.
- Dạ, thầy dạy đúng.
Cả hai cùng đi bộ về làng của người này mà không hề hay biết từ trong nhà của lão phú ông Điền có một người đang ngồi bên dưới một tầng hầm và xung quang là các bộ quan tài nhỏ đang rục rịch. Hai người Bác và anh kia vừa đi vừa trò chuyện :
- À, quên. Nãy giờ nói chuyện mà con chưa xưng tên, con tên là Khoai, năm nay 22 tuổi. Cho con hỏi, xưng hô như thế nào cho đúng.
Bác nói lạnh nhạt :
- Cứ gọi là Hai Cổ.
Anh Khoai nghe vậy thì gật đầu :
- Vậy con kêu thầy là thầy Hai.
Cả hai đi đường phải hơn 30 cây số thì mới về tới làng của anh Khoai. Đầu làng Bác nhìn thấy một cái cổng làng đã cũ mèm và tên ghi trên đó đã bị gió mưa phá hủy và không thể đọc được nữa. Anh Khoai nói thì Bác mới biết đây gọi là làng Cam, do khi trước và hiện giờ người dân trồng cam rất nhiều. Bác chợt dừng lại nhìn về một cái miếu nhỏ, chỉ cao tới cằm người lớn và kích thước như một cái thùng phi ở trước, nó cũ kỹ, được xây chỉ có một trụ dựng lên một mô đất khá cao, hai bên có dùng dĩa để ốp vào và mỗi cái lại có một chữ. Có hai cánh cổng nhỏ hai bên, bên trong vẫn có đèn, nhan khói nghi ngút . Bác nhìn vào thì thấy một bức tượng bằng đất được đặt vào và được phủ một lớp vải đỏ, nhưng để hở phần thân. Anh Khoai thấy thế vội giải thích :
- À, thầy Hai đừng có sợ, đây là miếu nàng cô. Nó có ở đó lâu lắm rồi, hình như cũng sắp được 15 năm rồi đó.
Bác à lên một tiếng rồi đi qua ngôi miếu. Nhưng Bác đã cảm nhận bên trong miếu đó tồn tại một linh hồn, à không phải một mà là hai linh hồn, một nữ một trẻ...
Đăng bởi | Haisekaisa |
Thời gian | |
Lượt thích | 1 |
Lượt đọc | 42 |