Tin Mừng Trước Trận Chiến
Thanh Dương cung thay đổi thị vệ, vòng trong hậu uyển vẫn trong sự bảo vệ của thị vệ Thục vương, nhưng bên ngoài hoàn toàn là thân binh của Dương Lăng, nội bất xuất ngoại bất nhập, trái lệnh giết chết không tha.
Thân binh của hắn tổng cộng dẫn theo năm trăm người, lần này lại điều đến ba trăm, nhưng nếu người muốn gây bất lợi cho Dương Lăng thật sự là Thục vương, cho dù phái đến toàn bộ năm trăm thân binh, Dương Lăng cũng không chút do dự. Bởi vì chỉ cần Thục vương ở trong lòng bàn tay của hắn, thì đó chính là sự bảo đảm lớn nhất cho sự an toàn tính mạng của hắn.
Những kinh quân tinh nhuệ này, giống như được đúc ra từ cùng một khuôn, ngoại hình xấp xỉ nhau, cùng Dương Lăng chém giết qua bao chiến trường, thì cái loại sát khí lạnh thấu xương này người khác không thể nào bắt chước được. Ngoài ra, khi so với thị vệ vương phủ thì cùng có vẻ uy vũ, nhưng về khí chất lại phân biệt cao thấp rõ ràng.
Đội nhân mã này tuy ít, nhưng lại làm cho người ta có một loại cảm giác, đây là những chiến sĩ máu tanh có thể lấy một chọi mười, thực sự tinh nhuệ trong quân đội. Mặc dù trên khuôn mặt họ mang nụ cười đầy ôn hòa, nhưng bất kể đạo sĩ Thanh Dương cung ở bên ngoài nào, hay là thị vệ vương phủ vòng trong, đều hữu ý vô ý giữ khoảng cách với họ, không dám khinh ý tới gần.
Lưu Đại Bổng Chùy miệng nhai cọng cỏ xanh, kiễng mũi chân đứng trên đài thuyết pháp nhìn xa xa, lẩm bẩm:
- Sắp xuất phát rồi chứ? Con bà nó, lúc này không thể xuất chinh cùng đại soái, đứng đây làm thị vệ, thật ức chết đi được.
Bên cạnh một người thị vệ cười nói:
- Bách hộ đại nhân, hầu gia không phải đã nói rồi sao, ngài bảo vệ tốt nơi này, chính là một công lớn, trở về nhất định ghi ngài công đầu.
Lưu Đại Bổng Chùy trừng đôi mắt hạt đậu của mình, cười mắng:
- Ngươi biết cái gì! Ngươi không biết được rằng đi đánh trận cùng đại soái quá đã ghiền này, hả giận này, lại thú vị, khoái chí như thế nào đâu. Ngươi đúng là kẻ kém hiểu biết.
Người nọ hì hì cười, không hề lên tiếng.
Lúc này phía sau truyền tới giọng nói điêu ngoa mà nhõng nhẽo:
- Các ngươi thật to gan, mắt bị mù cả rồi à? Ngay cả ta cũng không nhận ra, vậy thì chém sạch đầu các ngươi đi.
Lưu Đại Bổng Chùy nhìn lại, chỉ thấy hai thị vệ trong tay hàn quang bắn ra bốn phía. Hai thanh phác đao sáng như tuyết chạm vào nhau, đang ngăn một thiếu nữ áo xanh, phía sau thiếu nữ còn có hai tiểu nha đầu khác đi theo, sợ đến mức mặt mũi trắng bệch.
Lưu Đại Bổng Chùy ngậm gốc cỏ, chậm rì rì mà đi tới, hỏi:
- Chuyện gì xảy ra vậy?
Hai thị vệ vẫn đang cảnh giác cầm đao ngăn thiếu nữ lại, cũng không quay đầu lại mà nói:
- Bẩm bách hộ, vị cô nương này muốn rời Thanh Dương cung.
Cô gái kia mắt hạnh trợn lên, trừng mắt nhìn y nói:
- Ngươi chính là thủ lĩnh của bọn họ? Kêu người của ngươi cút ngay cho ta, bản cô nương muốn ra ngoài một chút.
Lưu Đại Bổng Chùy quan sát từ trên xuống dưới một lượt, thấy đây là một bé con mười ba mười bốn tuổi, làn da trắng mịn nõn nà, đến mức như khẽ bóp sẽ có nước nổi lên mặt da, đôi mắt tròn xoe, lông mi cong vút, cái miệng nhỏ đỏ thắm, hàm răng hơi lộ ra, khóe môi hơi nhếch lên, tuy đang tức giận nhưng vẫn hết sức đáng yêu.
Đôi mắt hạt đậu của Lưu Đại Bổng Chùy nhíu lại, ha hả mà cười:
- Đi ra ngoài làm gì? Đại soái nhà chúng ta nói, nơi này hiện tại do ta định đoạt. Cho dù là một con chuột, cũng không được phép chạy ra chạy vào, một cô gái nhỏ như ngươi tuy nói xinh như hoa, nhưng dù sao thì cũng lớn hơn con chuột. Không được, không có lệnh dụ của đại soái, thì hãy ngoan ngoãn trở về cho ta.
Tiểu cô nương vừa nghe xong thì mặt trắng ra, hai tay chống eo, hàng lông mày đen nhướng lên, lanh lảnh quát:
- Ngươi thật to gan, ngươi có biết bản cô nương là ai không?
- Hơ, phù.
Lưu Đại Bổng Chùy nhổ cây cỏ đang ngậm trong miệng ra, hai tay sờ vào cái bụng tròn xoe, dường như đã làm mất hẳn cái eo của gã:
- Vậy ngươi có biết bản quân gia là ai không?
Tiểu cô nương tức giận đến muốn nổ tung, chỉ vào chóp mũi cao nhọn xinh xắn của mình nói:
- Ta là nữ nhi của Thục vương, Tứ Xuyên quận chúa, nhà ngươi có mắt mà như mù!
Lưu Đại Bổng Chùy chớp đôi mắt hạt đậu, giơ ngón tay cà rốt ra chỉ lên cái mũi củ tỏi của mình nói:
- Ta là thần binh của đại soái, Sơn Đông Đại Bổng Chùy, đồ nhóc con có mắt như mù!
- Ngươi... ngươi... đồ hồ đồ, ngay cả Dương Lăng nhìn thấy ta, cũng không thể vô lễ như thế, Thục vương phạm phải pháp gì, đến nỗi cả nhà phải làm phạm nhân của các ngươi?
Chu Tương Nhi giận dữ hét.
Lưu Đại Bổng Chùy nhanh chóng nghiêm chỉnh khuôn mặt, nghiêm nghị nói:
- Đại soái nói, vương gia bệnh nặng, thế tử bị bắt, tình thế vô cùng nghiêm trọng, chỉ cần hơi có gió thổi cỏ lay thì Thục cảnh tứ bề báo hiệu bất ổn. Sự tình trọng đại, vì kế an toàn của vương gia, trước khi bình định phản loạn Tự Châu, nơi ở của vương gia sẽ dựa theo chế độ quân nhân. Quận chúa nói đúng rồi, tôi là một kẻ hồ đồ, chỉ biết cứng đầu, xin quận chúa đừng chấp nhặt kẻ hồ đồ này!
Chu Tương Nhi bị gã chọc tức đến không còn cách nào khác, dừng lại một chút rồi tự tìm lối thoát nói:
- Được! Ngươi chờ đấy, đồ khốn kiếp, leo lên đến Khâm Sai cũng giỏi đấy? Dám mạo phạm ta như thế, đợi Dương Lăng trở về, bản quận chúa bắt hắn phải quỳ xuống liếm đầu ngón chân của ta!
Chu Tân Hãn trị hạ bình tĩnh, mặc dù là vương gia nhưng lại thường xuyên cải trang vui chốn dân gian. Ông ta quản giáo con trai rất nghiêm, nhưng lại khá cưng chiều với cô con gái này, cho nên Chu Tương Nhi cũng thường xuyên trốn ra ngoài vui đùa. Nghe thấy những lời thô tục trong phố phường, thì cảm thấy rất uy phong. Lúc này bèn thuận miệng nói ra, có điều lời vừa ra khỏi miệng liền cảm thấy không ổn, đôi má mềm mại bỗng chốc đỏ bừng lên.
Lưu Đại Bổng Chùy nhìn tiểu cô nương xinh đẹp giống như nụ hoa, "phù" một tiếng vui vẻ nói:
- Ta chỉ phụ trách an toàn cho vương gia, đại soái nếu thích liếm chân, ta cũng mặc kệ.
Chu Tương Nhi không nói lý được với tên hồ đồ này, muốn mắng nhưng sợ bị gã được đà, tức đến mức giậm chân rồi quay người rời đi.
Lưu Đại Bổng Chùy nhìn cô đi xa, cười ha hả, nghiêm mặt, phân phó với hai bên tả hữu:
- Làm tốt lắm, nhớ trông kỹ cho ta, nhất là con chuột con nghịch ngợm này.
Hai bên thị vệ cố nhịn cười đồng thanh hô lên:
- Tuân mệnh!
Thục vương phủ nguy nga đồ sộ, bởi vì đất Thục giàu có, nên trong số vương phủ của chư phiên thì Thục vương phủ quy mô cũng lớn nhất, gần như chiếm một phần năm trong thành đô. Toàn bộ kiến trúc xây dựng kiểu tọa Bắc triều Nam (dựa lưng hướng bắc, ngoảnh nhìn hướng nam), khắp nơi điện lầu đài các, xanh vàng rực rỡ. Lâm viên khéo léo xinh đẹp, cầu nhỏ nước chảy, chim hót líu lo trăm hoa đua hương sắc, quả thực là tiên cảnh nhân gian. Trong đó "Cúc Tỉnh Thu Hương" được vinh dự là một trong tám đại cảnh quan của thành đô, chỉ có điều người hữu duyên thấy được nó chẳng có là bao.
Bên ngoài vườn hoa của cung điện rộng lớn này là một dãy cung thành, có dòng Ngự hà thông với Kim hà chảy chung quanh. Bên ngoài Ngự hà còn có một bức chuyên thành (tường gạch), gọi là trọng thành. Ngoài cung môn hai bên đông tây mỗi bên có một tòa đình, đông đình được gọi là Long Ngâm (rồng kêu), tây đình được gọi là Hổ Khiếu (hổ gầm).
Một tòa kiến trúc khổng lồ như vậy, vào thời Minh mạt, Trương Hiến Trung sau khi vào Thục từng coi nó là hoàng thành của Đại Tây quốc. Lúc binh bại rời đi Trương Hiến Trung không muốn hoàng cung xa hoa này rơi vào tay người Thanh, nên đã một mồi lửa thiêu hủy hoàng thành hầu như không còn.
Lúc này, Chu Nhượng Cận và Thác Bạt Yên Nhiên đang chậm rãi đi trong cung uyển. Bên cạnh cảnh trí tuyệt đẹp, chim hót vui tai, gió thu dễ chịu, mang đến từng làn hương hoa cúc thơm ngát. Thác Bạt Yên Nhiên thấp giọng nói:
- Đi Tự Châu, mọi sự tự mình cẩn thận, hiện tại thế tử rơi vào tay Đô Chưởng Man, tình cảnh của huynh rất khó xử. Nếu là một mặt cầu hòa bãi binh, tổn hại đến thể diện của triều đình, chẳng những Khâm Sai không vui, Ba Thục quan viên tất nhiên cũng bất mãn. Nhưng nếu như huynh chủ trương xuất binh, không khỏi lại bị người khác hoài nghi huynh nhân cơ hội hãm sát thế tử, mưu cầu vinh hoa phú quý, ôi, im lặng là vàng, chuyện gì có thể không nói thì bớt nói đi.
Chu Nhượng Cận hôm nay mặc một chiếc áo bào ống tay bó, càng tôn lên đôi môi hồng và hàm răng trắng, phong lưu phóng khoáng, nghe xong Thác Bạt Yên Nhiên nói, anh ta cười vang:
- Yên Nhiên quá lo rồi. Chu Nhượng Cận ta lòng dạ vô tư, cái gì mà vinh hoa phú quý, chẳng qua chỉ là thứ nhất thời, địa vị Thục vương này, phụ thân chính là tặng cho ta, ta còn ngại người khác khó chịu sao. Nhưng hiện tại vương huynh rơi vào trong tay đám Man nhân kia, đó là anh em ruột thịt của ta. Dù như thế nào ta cũng phải nghĩ cách cứu huynh ấy ra, người khác nói như thế nào, ta mặc.
Thác Bạt Yên Nhiên duyên dáng lườm anh ta một cái, sẵng giọng:
- Huynh đấy, chính là cái kiểu làm theo ý mình này của huynh, chứ nếu dựa vào tài học của huynh, vương gia sao không thích huynh cho được chứ? Phải biết kìm chế.
Chu Nhượng Cận lắc đầu, khẽ cười nói:
- Tài học, nhân phẩm của vương huynh ta đều rất bội phục, vì sao muội thích ta, lại không thích vương huynh? Còn không phải là bởi vì ta cá tính đường hoàng, làm theo ý mình, không giống như vương huynh làm người nghiêm túc câu nệ sao?
Thác Bạt Yên Nhiên mỉm cười, lắc đầu thở dài:
- Huynh đấy, huynh đấy...
Nhưng trong thần sắc của nàng lại tràn đầy vui mừng, hiển nhiên Chu Nhượng Cận đã nói trúng tâm sự của nàng rồi.
Nàng suy nghĩ, lại nói:
- Huynh vừa đi Tự Châu, ta ở thành đô cũng không có ý vị gì, hai ngày này liền trở về Tiểu Kim Xuyên, sự vụ vương phủ đều an bài thỏa đáng rồi chứ?
Chu Nhượng Cận cười nói:
- Chuyện vương phủ không cần ta quan tâm, ngày mốt đại quản gia sẽ từ Thiểm Tây trở lại, phụ vương đang tĩnh tu, lúc vương huynh không ở đây đều là do ông ta đến xử lý sự vụ vương phủ.
Thác Bạt Yên Nhiên không vui nói:
- Những quy củ này thật sự là không hiểu ra sao cả, đều là con của Thục vương, con cả có thể thay vương gia chưởng quản toàn bộ vương phủ, nhưng bất cứ chuyện gì huynh một chút cũng không thể, còn phải nơi nơi tránh hiềm nghi. Ngân An điện ngay cả cửa huynh cũng không được phép vào, nhưng tọa vị của phụ thân ta thì ta muốn ngồi thì ngồi, nghĩ ra cũng thật khiến người ta tức chết mà.
Thác Bạt Yên Nhiên bất bình thay anh ta, nhưng Chu Nhượng Cận lại mang một bộ dạng thích thú, ha hả cười nói:
- Như vậy không tốt sao? Ăn ngon mặc đẹp, lại chẳng phải sai phái đi đâu. Thật sự để cho ta đi làm những sự tình kia, lo liệu sự vụ ngày thường của vương phủ, đi quản mỏ muối ruộng dâu, quặng sắt núi bạc, muội thích sao?
- Không muốn.
Thác Bạt Yên Nhiên khinh thường bĩu môi, lắc đầu nói:
- Không muốn đâu, Chu Nhượng Cận là rồng phượng trong loài người, sao có thể vấy bẩn những tục vật này chứ?
Chu Nhượng Cận được nàng khen mở cờ trong bụng, không kìm nổi vô cùng thân thiết vuốt một cái lên mũi của nàng, mỉm cười nói:
- Muội đó, phụ vương không giao ta xử lý những sự tình kia, muội sợ phụ vương lạnh nhạt ta. Phân công việc cho ta, muội lại sợ những tục sự kia ràng buộc ta, ha ha, nữ nhân đúng là mâu thuẫn như thế đấy.
Thác Bạt Yên Nhiên hất cao khuôn mặt xinh đẹp nói:
- Huynh có ý gì đó? Có phải muốn nói: nữ tử và tiểu nhân khó mà sống cùng nhau. Gần thì vô lễ, xa thì oán, cổ nhân thật không lừa ta?
Chu Nhượng Cận bật cười nói:
- Muội đấy, lại mang lòng nghi ngờ, ta làm gì có ý đó chứ?
- Nhất định là thế!
Cái tính điêu ngoa của Thác Bạt Yên Nhiên lại nổi lên:
- Trách không được huynh nhớ mãi không quên cái Giang Nam Đại Tiểu Lâu kia, còn khen không dứt miệng. Nữ nhân như cô ta khôn khéo lanh lợi, rất biết dụ dỗ nam nhân. Huynh muốn sang đông cô ta cấm có sang tây, nếu may mắn bám được một người có địa vị cao như huynh, thì miệng lưỡi càng ngọt như mía lùi, làm sao còn có thể nói nọ nói kia chứ...
Khuôn mặt tuấn tú của Chu Nhượng Cận lập tức xụ xuống:
- Má ơi, lại bắt đầu rồi, khuôn mặt của Yên Nhiên giống như trời Vân Nam, thay đổi bất thường, ai biết câu nào cô ấy nghe vào thì sẽ không thuận tai chứ, im lặng là vàng. Ừ! Im lặng là vàng.
Thác Bạt Yên Nhiên nói nửa ngày, thấy anh ta không rên một tiếng, không khỏi cả giận:
- Huynh chột dạ có phải hay không? Bằng không tại sao lại không nói được một lời?
Chu Nhượng Cận bất đắc dĩ nói:
- Chột dạ cái gì chứ, ý của ta là... ôi!! Yên Nhiên, trái tim trời sinh hiếm có có bảy cái động, khiến người ta sờ không thấy, đoán không ra...
- Huynh còn nói dối!
Chu Nhượng Cận vội vàng ngậm miệng lại không nói gì nữa.
Đúng lúc này, một tiếng cười nói vang lên:
- Ha ha. Thác Bạt cô nương lại đang khi dễ nhị vương tử rồi hả? Trên đời này, cũng chỉ có cô nương mới có thể trị được hắn á khẩu không trả lời được thôi.
Chỉ thấy một nam từ tráng niên bên trên khoác chiếc áo ống tay hẹp màu đen hở vạt viền thêu hoa, bên dưới mặc chiếc quần dài rộng ống cười lớn đi tới, phía sau là một nữ tử trang phục tương tự nhưng màu sắc sáng hơn, đầu đội mũ mào gà.
Trên đỉnh đầu nam tử này có một túm tóc dài khoảng ba tấc, xưng là "Thiên Bồ Tát", lại dùng chiếc khăn vải bông màu xanh da trời pha lẫn xanh lá cây vấn đầu, bên trái trán nhô ra một cái sừng nhọn cao cao, xưng là anh hùng kết. Tai trái xâu kim, đeo một cái vòng tai vàng cực lớn. Tuy nói lúc này khí trời vẫn rất nóng bức, nhưng trên vai người này lại khoác một tấm lông cừu thô giống như áo choàng, đúng là kiểu trang sức người Di.
Tuổi của y phải lớn hơn Chu Nhượng Cận, khoảng trên dưới ba mươi tuổi. Tuy nhiên người Di coi không để râu là đẹp, cứ mọc lên là cạo bỏ đi, cho nên cái cằm trông trơn bóng, nhìn càng trẻ hơn.
Chu Nhượng Cận như gặp cứu tinh, lòng vui rạo rực vội vàng lên phía trước nói:
- Cát Phan Ngõa Tây, huynh đệ tốt của ta, huynh cuối cùng cũng tới đúng lúc.
Nói xong liền ôm y một cái, sau đó lại quay về phía sau mỉm cười lên tiếng chào hỏi với nữ nhân Di tộc, đó là thê tử của Ngõa Tây tên Cát Cổ A Gia.
Cát Cổ A Gia khoác chiếc khăn choàng bằng lông, bên dưới mặc chiếc váy dài xếp li, bởi vì chồng của cô Cát Phan Ngõa Tây là con trai của thổ ty, thân phận tôn quý, cho nên dựa theo quy củ thân phận càng tôn quý, nếp li trên váy càng nhiều, váy của cô rất nhiều nếp nhăn, đồng thời dài tới mặt đất, khi đi lại bụi đất tung bay, điều này mới thể hiện được thân phận quý trọng.
- Ta nhận được tin tức của huynh, liền ngày đêm không ngừng chạy đến đây đấy huynh đệ tốt. Có chuyện gì muốn ta hỗ trợ sao?
Cát Phan Ngõa Tây cười dài nói với Chu Nhượng Cận.
Cát Phan Ngõa Tây và Thác Bạt Yên Nhiên có quen biết nhau, cho nên lên tiếng cười chào hỏi. Mấy năm trước y từng gặp phải cơn bệnh nặng, vu y trong bộ tộc không thể chữa khỏi. Mắt thấy sắp bị mất mạng, là Chu Nhượng Cận trùng hợp du lịch đến đây đã để cho lang trung tùy thân trị khỏi cho y, người Di tính tình dũng cảm, có ân báo ân, từ đó về sau coi Chu Nhượng Cận như huynh đệ khác họ.
Chu Nhượng Cận nói sơ lược một lượt, sau đó tiếp:
- Ta biết rằng huynh đi qua Lăng Tiêu thành và Cửu Ti trại buôn bán cùng bọn họ, đối với các con đường vào núi nhất định nắm rõ. Vương huynh hiện tại đang nằm trong tay bọn họ, dựa vào sự công kích cứng rắn của đại quân triều đình mà nói, vương huynh nhất định khó giữ được tính mạng, cho nên ta mới hy vọng huynh có thể cùng ta đồng hành, làm việc tùy theo hoàn cảnh, có lẽ có cơ hội cứu vương huynh ta ra.
Cát Phan Ngõa Tây vừa nghe mặt lộ vẻ khó khăn, do dự sau một lúc lâu mới thấp giọng nói:
- Huynh đệ tốt, tin tức vương huynh của huynh bị bắt ta vẫn không biết, tuy nhiên chuyện người Đô Chưởng Man đối nghịch với triều đình lại truyền khắp các trại rồi, các lão gia thổ ty phần lớn đều giữ... khụ khụ, cái loại tâm tư này, nếu ta ra mặt giúp huynh, bộ lạc của chúng ta sẽ bị người cô lập...
Hai hàng lông mày của Chu Nhượng Cận rủ xuống, khẽ thở dài, vỗ vỗ bả vai anh ta nói:
- Ta hiểu, Nhượng Cận sẽ không để cho huynh đệ khó xử đâu, ta nghĩ biện pháp khác, huynh không cần phải khó xử.
Cát Phan Ngõa Tây do dự một chút, cắn răng nói:
- Được rồi, ta đi cùng huynh, tuy nhiên... ta không thể công khai lộ diện, huynh cho ta một bộ y phục người Hán, đừng cho người khác biết Cát Phan Ngõa Tây ta đi cùng ở bên cạnh huynh là được.
Chu Nhượng Cận mừng rỡ, ôm anh ta một cái nói:
- Cách hay, tẩu phu nhân trước mắt hãy ở tạm trong vương phủ, ta nhất định sai người chiếu cố đại tẩu cẩn thận.
Cát Phan Ngõa Tây mắt nhìn Thác Bạt Yên Nhiên, Chu Nhượng Cận hiểu ý mà cười nói:
- Yên Nhiên là hồng nhan tri kỷ của ta, hồng nhan tri kỷ duy nhất, chỗ nàng ấy huynh hẳn là yên tâm mới đúng.
Thác Bạt Yên Nhiên mặc dù thích chọc cái tính nóng nảy của Chu Nhượng Cận, tuy nhiên ở trường hợp công khai vẫn biết giữ thể diện cho anh ta, cũng vội cười nói tự nhiên:
- Đúng vậy, huynh yên tâm đi, xem như hôm nay ta chưa nhìn thấy phu thê các vị đến vương phủ, như vậy thì an tâm rồi chứ, A Hắc ca.
Nội bộ bách quan đất Thục đối với nghị hòa hay là tác chiến, chiêu an hay là tiêu diệt trước sau vẫn chẳng tranh luận được đến đâu. Có quan viên lấy việc đất Thục khó đi, Tự Châu nhiều hung hiểm, năm đó hai trăm ngàn đại quân không thể vào núi nửa bước làm lý do, đề nghị có thể tạm thời đáp ứng điều kiện của Đô Chưởng Man, tất cả lấy việc giải cứu thế tử là điều kiện tiên quyết, rồi từ từ giải quyết hậu kế.
Người phản đối lại cho rằng một khi đáp ứng, chẳng khác nào Đô Chưởng Man quy định phạm vi hoạt động ở Tự Châu, nghiễm nhiên đó là quốc gia trong quốc gia, triều đình có muốn xuất binh, về mặt đạo nghĩa chỉ tạo thành bị động, xuất sư vô danh rồi, hơn nữa các thổ ty bộ lạc khác nếu học theo, từ nay về sau Thục cảnh sẽ không còn một ngày yên bình. Cho nên hai biện pháp tiêu diệt và trấn áp phải cùng sử dụng, có thể hứa lấy số tiền lớn, thổ địa và chức quan để chuộc đồ thế tử, đồng thời lấy vũ lực hùng mạnh áp gần, khiến Đô Chưởng Man từ bỏ điều kiện quá đáng.
Song phương tranh luận không thôi, tuy nhiên một nhận thức chung cơ bản đều được nhất trí, đó là người Hán rời khỏi Tự Châu, để cho Đô Chưởng Man giống như tự thành một quốc gia, điều này tuyệt đối không thể nào. Cho dù Thục vương đáp ứng, triều đình nghe thấy cũng sẽ không đồng ý. Đô Chưởng Man đề xuất điều kiện quá mức như vậy, tám chín phần mười chính là muốn cò kè mặc cả với triều đình, để dễ chặt đẹp, muốn cái giá cao.
Dương Lăng sớm đoán được ngồi ở đây đơn phương thảo luận như vậy căn bản không thể có một kết quả, cố ý công khai thảo luận chính sự như vậy chỉ là bởi vì lần đầu nắm quyền to, tránh cho người ta cảm giác mình chuyên quyền độc đoán, bảo thủ thôi.
Hắn ngồi ở vị trí đầu, tả hữu bưng Thượng Phương kiếm và ấn tín Khâm Sai được bọc bởi tấm lụa vàng, lặng lẽ đợi đến khi hai bên tranh luận đến mức không thể dàn xếp, vị Khâm Sai đại nhân này này mới vỗ bàn một cái, quyết đoán nói:
- Đánh hay không, hãy xuất mã trước. Chúng ta ở đây thương lượng ra một trăm chủ ý, cũng phải để cho người Đô Chưởng Man chịu đáp ứng mới được. Một mực ở đây thảo luận, há chẳng phải là lý luận suông sao? Người Đô Chưởng Man ở đâu? Ở trong rừng sâu núi thẳm Tự Châu! Ý kiến của hai bên các vị, bản Khâm Sai đã nhớ kỹ. Đợi khi đến Tự Châu rồi, thăm dò ngọn nguồn của người Đô Chưởng Man mới có thể có lựa chọn. Bản Khâm Sai hiện tại tuyên bố, do Đô Chỉ Huy Sứ Lý Sâm dẫn theo đại quân bảy vạn, lập tức xuất phát đi Tự Châu. Nơi đó hiểm trở eo hẹp, phái đi một trăm vạn quân đội, có thể trực tiếp giao chiến với người Đô Chưởng Man cũng chỉ có hai vạn người, bảy vạn đại quân xem như cũng dư dả rồi. Đồng thời bản Khâm Sai và nhị vương tử, Bố Chính Sứ Tham Chính Phong đại nhân, thành đô Đồng Tri Ngũ đại nhân đi Tự Châu. Bố Chính Sứ An đại nhân, Án Sát Sứ Lục đại nhân ở lại thành đô chủ trì đại cục. Người đi theo có Bố Chính Sứ Nha môn, có người của thành đô Tri Phủ Nha môn. Quan trọng nhất là Thục vương thứ tử cũng tùy quân đồng hành, mọi người còn có thể có ý kiến gì không?
Vậy là song phương tranh cãi dạ vâng lui ra. Dương Lăng vừa thấy, phất tay áo quát:
- Tức khắc khởi hành đi Tự Châu, văn võ quan viên các ti, người nào chậm trễ quân lệnh của bản hầu, giết không tha. Thoái đường!
Bảy vạn đại quân phải triệu tập từ các nơi, quân lệnh truyền xuống, quân đội tự hành tới Tự Châu đợi mệnh. Quân đội xuất phát thành đô phủ tuy mới mười lăm ngàn người, nhưng mười lăm ngàn người này, cũng rất trùng trùng điệp điệp, hơn nữa phía sau đoàn quân còn kéo thêm những khẩu đại pháo trông đến dọa người, nhưng đám sĩ tử quan viên có kiến thức tại địa phương nhìn thấy lại lắc đầu.
Vị Khâm Sai này còn tưởng là ở phương bắc đánh Thát tử chứ? Chỗ ở của người Đô Chưởng Man hiểm yếu vô cùng, đám binh lính đi đường đều khó khăn, những khẩu đại pháo to lớn nặng ngàn cân này nếu hắn có thể vận chuyển vào núi một khẩu, đó cũng là kỳ tích rồi, về phần nó có tác dụng với các thành lũy do thiên địa tạo ra, những hiểm quan do vách núi vách đá cấu thành kia hay không, lại chỉ có ông trời mới biết.
Dương Lăng lại chẳng hề để ý, căn bản mặc kệ người bên ngoài nhìn hắn như thế nào. Đại Minh từ lúc dựng nước, đất giống như một đôi oan gia với Đô Chưởng Man, các trận chiến đã kéo dài hơn một trăm năm rồi, danh tướng không biết phái ra bao nhiêu, quân đội nhiều nhất xuất động hơn hai mươi lăm vạn, cũng không làm gì được người ta.
Không có nguyên nhân khác, không phải là người Đô Chưởng Man có vũ khí sắc bén, cũng không phải là bọn họ có những trí giả tài giỏi. Đám Man nhân này tuy rằng dũng mãnh, nhưng nói lấy một chọi trăm là có chút khoa trương, nếu thật sự phải đánh trận, ba năm vạn quân cũng là đủ rồi.
Vấn đề ở chỗ nơi đó là vùng khỉ ho cò gáy, mặc ngươi danh tướng dụng binh như thần, dưới tay hùng sư trăm vạn, nếu thực sự đánh nhau chỉ có ở phía sau phất cờ hò reo. Chỉ với con đường mòn ruột dê dài hơn ba mươi dặm trước thành Cửu Ti, phái vài trăm người núp trong bụi cỏ không ngừng đánh lén, thì đại quân của ngươi sẽ không thể đi qua.
Sự mưu lược của danh tướng, đại quân vô địch, thì trước cái uy của vùng đất này, trước kiệt tác giống như Quỷ Phủ thần công chỉ có thể thất bại quay về, mặc cho đám Man nhân giống như ăn mày quần áo rách rưới, văn minh còn ngu muội tiêu dao ở trong núi.
Cái Dương Lăng muốn chính là làm cho người ta một loại giả tượng (biểu hiện giả dối), một loại giả tượng trong chiến lược của hắn không khác gì so với một số từng bao vây diệt trừ Đô Chưởng Man, lấy khinh mạn làm loạn quân tâm, về phần khả năng thần cơ diệu toán của Dương Lăng, phương pháp xuất binh tất thắng này vẫn đang trong thời kỳ ủ men, hắn cần Liễu Bưu tận khả năng đưa về nhiều tình báo, mới có thể bắt bệnh bốc thuốc, nghĩ ra phương pháp ứng phó.
Thời Tống khi đại quân chưa xuất chinh, hoàng đế trước tiên vẽ ra một tấm trận pháp đồ, giao cho tướng lĩnh cầm binh bốc thuốc theo đơn, lúc ấy bất kể là tướng lĩnh trong quân hay là bách quan trong triều, không ai cảm thấy có cái gì không đúng, nhưng trong mắt Dương Lăng, điều đó thật vớ vẩn dị thường.
Đã tới chiến trường tiền phương, binh lực địch ta không thể đoán trước, địa điểm giao chiến không thể đoán trước, chiến pháp của kẻ thù không thể đoán trước, sĩ khí quân tâm thậm chí thời tiết hết thảy đều không thể đoán trước. Muốn tác chiến dựa theo trận đồ đã vẽ trước đó, câu nệ không thay đổi như thế làm sao có thể không bất bại?
Dưới tình huống thời bấy giờ hệ thống tình báo không phát triển, tướng soái trước khi xuất chinh sẽ chế định ra những chiến sách chiến pháp cụ thể. Dương Lăng cho rằng như vậy đồng nghĩa với việc không có tinh thần trách nhiệm, cho nên một chút không vì thân là chủ soái, cảm thấy bất an vì đại quân xuất phát mà không có chiến lược cụ thể, ngược lại cảm thấy đó là điều đương nhiên.
Đại quân rời khỏi hai ngày, ba con khoái mã từ kinh sư cuốn bụi đuổi tới thành đô, chỉ dừng lại chốc lát tại Khâm Sai hành dinh, rồi lại đánh ngựa như bay chạy thẳng đến Tự Châu.
Dương Lăng tới Tự Châu liền dàn xếp trước. Ngũ Đồng Tri phụ trách quân nhu quân dụng, tiền kỳ anh ta là người bận rộn nhất, lên tiếng chào hỏi với Khâm Sai rồi cũng tự đi an bài lương thảo.
Lý Sâm thi sắp xếp chư quân lần lượt đuổi tới, đóng doanh trại, dựng sa bàn, tìm hiểu tình hình người Đô Chưởng Man của các chư huyện lân cận, nghị sự cùng các tướng lĩnh trong quân, bận đến tối mày tối mặt.
Liễu Bưu nghe nói Dương Lăng tới, liền lập tức tới tương kiến, chờ thân binh của Dương Lăng dẫn hắn vào đại trướng của hắn, Liễu Bưu thấy Dương Lăng mặc một thân áo bào trắng mềm mại, khăn lụa buộc tóc, phong độ nhẹ nhàng, giống như văn nhân nhã sĩ, không thấy một chút khí chất tướng quân nào, nhưng sau lưng hắn lại là một tiểu Giáo Úy toàn thân quân phục.
Liễu Bưu chắp tay nói với Dương Lăng:
- Tham kiến đại nhân.
- Ngồi đi, ngồi đi, không cần khách khí, nhìn bộ dạng của ngươi, mấy ngày nay bôn ba mệt nhọc, vất vả cho ngươi rồi. Nếm thử chút Nga Mi Trúc Diệp Thanh này, giống như Tây Hồ Long Tỉnh, nhưng hương vị lại rất khác. Uống nước đi, lấy tinh thần rồi nói sau.
- Vâng, tạ ơn đại nhân.
Liễu Bưu cười hì hy trả lời rồi nhận chén trà và uống một ngụm, đột nhiên cảm giác tiểu Giáo Úy sau lưng Dương Lăng kia có chút quen quen, ánh mắt nhìn anh ta cũng bất thường.
Liễu Bưu cẩn thận nhìn lại hai cái: một tiểu Giáo Úy rất tuấn tú, môi hồng răng trắng, mày liễu mắt hạnh, giống như đại cô nương mới mười sáu. Liễu Bưu hai mắt sáng lên:
- Đại nhân kiếm ở đâu ra vậy, quan lại quyền quý nhiều hảo nam phong, đại nhân không phải là nữ sắc phẩm nhiều rồi, nên muốn nếm chút vị luyến đồng đấy chứ? (ý chỉ thích con trai).
Khi đó hảo nam phong là loại thời thượng, cũng không chịu sự khinh bỉ của người đương thời, cho nên Lỉễu Bưu liền cười xấu xa suy nghĩ, không ngờ tiểu tử tuấn tú đó thấy anh ta nhìn mình, đột nhiên hé miệng cười, rồi trừng mắt với anh ta.
Nụ cười này chắc chắn là của nữ nhân rồi, Liễu Bưu đột nhiên trừng lớn mắt, "phù" một cái khiến miệng từ phun ra ngoài:
- Đây... đây không phải Tống tổng binh sao?
Liễu Bưu ngạc nhiên nói:
- Tống đại nhân không phải ở lại thành đô sao? Đâu có nghe nói Lang Binh cũng tới Tự Châu.
Dương Lăng quay đầu lại nhìn Tống Tiểu Ái, ha hả cười nói:
- Ngay cả ngươi cũng qua mắt được hả? Vậy là tốt rồi, trước mắt chớ nói ra ngoài. Lang Quân đi trong Thập Vạn Đại Sơn như giẫm trên đất bằng, ở nơi này chắc cũng có thể phát huy công dụng, ít nhất thiện hơn quan quân chúng ta ở các trận chiến vùng núi, hay rừng cây. Đây là một nhánh kỳ binh của ta. Dùng như thế nào ta vẫn chưa nghĩ xong, chỉ chờ tin tức của ngươi.
Liễu Bưu định thần lại, lúc này mới cười khổ nói:
- Người của ti chức, đương nhiên sẽ không đặc biệt chú ý thám thính tin tức của đại nhân ngài, tuy nhiên hành tung của ngài chúng ti chức luôn luôn tại ý, có thể qua được tai mắt của bọn họ, công phu bảo mật này của đại nhận cũng đủ lợi hại đấy ạ.
Anh ta hớp miếng trà rồi buông chén xuống, đem tình báo mà thủ hạ thu thập được tổng hợp một chút, rồi nói lại chi tiết với Dương Lăng. Dương Lăng một bên nghe, một bên ghi lại những yếu điểm lên giấy: nào là địa điểm người Đô Chưởng Man tập trung cư trú, sự phân bố của các bộ lạc,
Sự cấu thành của thôn trại, tỷ lệ đại khái giữa nam nữ già trẻ, thực vật ưa thích, phong thổ nhân tình, phong tục tập quán, thậm chí có những ngày hội nào, cùng với tôn giáo tín ngưỡng. Đây đều là những vấn đề mà trước kia khi tiêu diệt và trấn áp Đô Chưởng Man, các tướng quân không chú ý lắm, Dương Lăng đều không rõ chi tiết, nên không để sót điểm nào.
- Trước đây bọn họ thường cư trú giữa các huyện lận cận như Giới Cao, Củng, Quân Liên, Trường Ninh, Giang An, huyện Nhung, sau khi xung đột với người Hán, liền đi cướp tứ phương, giết chết mấy trăm lương dân, cướp bóc rất nhiều lương thảo, cũng có người nhân cơ hội gian dâm phụ nữ, sau đó tụ lại ở các nơi hiểm yếu như Đô Đô trại, Lăng Tiêu thành, Cửu Ti thành. Tuy nhiên sau khi thế tử bị giam, bọn họ hình như có ý ỷ vào, cho rằng quan binh không dám đả thương bọn họ, mà hoa màu ở thôn trại một số đã sắp chín, cần thu gặt, cho nên rất nhiều người đã trở về.
- Ngoài mấy chỗ hiểm yếu như Đô Đô trại, Cửu Ti thành, Lăng Tiêu thành mà đại nhân đã biết rõ ra, tụ tập có trọng binh Đô Chưởng Man, còn có Bặc Vương sơn. Thời Đường Tống, ở giữa sườn núi trên ngọn núi chính Cai sơn có xây dựng một khu trại lớn bằng đá, khu trại này xây bao quanh núi, tảng đá lớn làm tường, cao chừng hơn trượng. Bên trong thành diện tích hơn trăm mẫu, dựng nhiều cổng trại lớn nhỏ, vì vậy được gọi là Thạch Đầu trại (trại đá).
Bốn xung quanh núi là dốc đứng, dưới chân núi không có đường, duy chỉ có giữa tây quan khẩu và Sáp Kỳ sơn có ải đạo có thể lên, hai bên con đường nhỏ lên núi tường thành bằng đá lớn kéo dài mấy trăm mét, có thể nói dễ thủ khó công...
Dương Lăng nhớ kỹ từng cái, hiện tại chỉ là nghe Liễu Bưu khẩu thuật, trong lòng của hắn vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng nào. Đại quân sau khi đóng trại xong, nhất định phải liên hệ với Man nhân trước, xem thế nào để cứu thế tử ra, nếu đàm hòa không thành mới có thể động binh, cho nên hắn cũng không quá sốt ruột, chỉ lo đi tìm hiểu kỹ bốn xung quanh một chút, đều dùng đến khi cần.
- Ngươi nói Đô Chưởng Man lấy trống đồng làm của cải? Bọn họ không sử dụng vàng bạc sao?
Dương Lăng dừng bút lại, tò mò hỏi.
- Không, vàng bạc chỉ sợ ở trong tất cả các bộ tộc đều coi nó là tài vật quý báu, tuy nhiên giống như người Ô Tư Tạng lấy số lượng dê bò nhiều ít để thể hiện sự tài phú của mình. Đô Chưởng Man lấy trống đồng để thể hiện, một chiếc trống đồng lớn thượng đẳng giá trị bạc trắng hai trăm lượng, có thể đổi ngàn con trâu cày.
Người Đô Chưởng Man uống rượu mua vui phải đánh trống, bái thần hiến tế phải đánh trống, lãnh binh tác chiến vẫn là phải đánh trống. Cho nên trống đồng trong mắt bọn họ chẳng những là sự tượng trưng cho của cải, hơn nữa còn thể hiện cho quyền lực, thể hiện sự may mắn, thể hiện sự vũ dũng. Trong nhà nếu có ba bốn chiếc trống đồng, thì xem như có địa vị cao trong bộ lạc, được mọi người kính sợ.
Người Đô Chưởng Man xem thường người Hán, tuy nhiên lại kính sợ một cách dị thường nhất với Gia Cát Lượng, cho rằng ông ta là thiên thần không thể chiến thắng, vì thế liền coi chiếc trống đồng thể hiện sự vũ dũng và chiến lực là trống Gia Cát.
Dương Lăng trầm ngâm, Liễu Bưu lại nói:
- Thần minh mà người Đô Chưởng Man thờ phụng là con ếch thần, chính là con ếch, nghi thức bái thần của bọn họ chính là mặc bộ trang phục đặc chế, mô phỏng động tác nhảy của ếch, cầu phúc với ếch thần. Trên rất nhiều vách núi vách đá đều lưu lại bức tranh con ếch thần to lớn do họ tự vẽ. Ti chức thấy qua một bức, vách đứng ngàn mét, cho dù lấy dây thừng buộc xuống, để vẽ một bức họa lớn như vậy, cũng không biết phải phí công phu bao lâu, như vậy sự sùng bái của bọn họ đối với ếch thần có thể đủ thấy.
Những thứ vụn vặt linh tinh này Dương Lăng cũng không biết cái nào có thể dùng đến được, cái nào không, tuy nhiên trước mắt hắn cứ ghi chép từng cái lại, hiểu càng nhiều về tính cách của người Đô Chưởng Man, hiểu đối thủ càng nhiều, luôn có thể nắm chắc thêm phần thắng lợi.
Dương Lăng nói:
- Đô Chưởng Man có mấy ngàn thôn trại, phân bố rải rác xung quanh chư huyện, thôn trại lớn nhất mới hơn trăm người, nhưng mà mỗi khi gặp chiến sự, lại có thể tụ tập nhanh chóng, hơn nữa trên dưới một lòng, mọi người đồng tâm hiệp lực, sức mạnh như thành đồng. Bộ tộc này quả thật có chỗ độc đáo của nó, nghe nói tộc trưởng của bọn họ họ A (âm đọc là Cáp)?
Liễu Bưu nói:
- Vâng, kỳ thật các bộ tộc đất Thục, ví dụ như Khương, Di, Miêu, Ô Tư Tạng, hơn trăm năm nay tạp cư cùng người Hán, tiếp nhận học vấn của người Hán, đã Hán hóa rất nhiều rồi, được gọi là Thục Phiên, những thành phần sống tại vùng núi xa xôi, dã tính khó thuần, còn thường xuyên rời núi cướp bóc thôn trại người Hán, được gọi là Sinh Phiên. Mà Đô Chưởng Man lại là dị loại trong số đó, trước sau cô lập, không qua lại với người Hán. Tuy nhiên việc không lui tới này là chỉ bọn họ không qua lại với người Hán tạp cư, cực kỳ bài xích người Hán, nhưng đối với rất nhiều thứ đồ của người Hán, bọn họ lại rất thích. Theo điều tra của ti chức, đại tù trưởng của bọn họ là A Đại, từng phái người mua rất nhiều đồ sứ và tơ lụa, hơn nữa nhìn thấy nghi thức đi tuần của quan viên triều đình cũng vô cùng hâm mộ.
Có lưu dân người Hán đầu nhập vào bọn họ thúc ngựa cung phụng nghênh đón, xúi giục A Đại tù trưởng học người Hán xưng hoàng xưng đế, mỗi khi đi tuần, đều ngồi xe ngựa tứ giá, thân mặc trang phục thêu rồng, đỉnh đầu cũng che lọng, dọc đường khua chiêng gõ trống.
Liễu Bưu nhịn cười nói:
- Tuy nhiên A Đại cảm thấy hoàng đế nghe không uy phong bằng đại vương, cho nên liền lệnh tộc nhân xưng lão là đại vương, chứ không muốn xưng hoàng đế. Khi gã truyền hạ mệnh lệnh, cũng không gọi là thánh chỉ, mà gọi là đại vương chỉ.
Tống Tiểu Ái phù cười thành tiếng, Dương Lăng nghe đến đó, cũng nhịn không được nữa bật cười, đúng lúc này, ngoài cửa có người hô to nói:
- Thánh chỉ đến, Dương Lăng tiếp chỉ!
Dương Lăng giật mình kinh hãi, không kịp suy nghĩ liền vội vàng chỉnh trang phục đi ra ngoài trướng, chỉ thấy ba kị sĩ cưỡi trên ba con tuấn mã phong trần, trên vai cắm kiên kỳ hỏa tốc đặc chế của quân dịch, hai người Chu Nhượng Cận và Bố Chính Sứ Tham Chính Phong đại nhân không hiểu sao cũng đi theo ở phía sau.
Trong lòng Dương Lăng trầm xuống, trong kinh xảy ra đại sự gì rồi?
Hắn vội vã đi lên trước, kéo vạt áo quỳ xuống, cất giọng nói:
- Dương Lăng tiếp chỉ.
Người kị sĩ ở giữa tháo cái bọc lụa vàng trên vai xuống, lấy thánh chỉ ra từ từ mở và nói:
- Phụng thiên thừa vận hoàng đế, chiếu viết: Uy Võ Hầu, Trụ Quốc Thượng tướng quân, Nội Am Đề Đốc Dương Lăng, phụng chỉ tuần du thiên hạ. Lúc đó có giặc Oa di đạo tập kích quấy rối hải vực Nam Cương, khanh suất lĩnh quân lục tỉnh, làm soái hổ lang, khoác giáp cầm thương, thế như chẻ tre, đánh đâu thắng đó, có thể bình định nhanh chóng, giương cao uy phong ta, công danh hiển hách, trẫm rất tán thưởng. Nhìn xuống triều dã, trẫm muốn cất nhắc người trí dũng lo chuyện trong ngoài, và người đó chính là khanh. Ái khanh dốc lòng cống hiến, có công với đất nước. Thê tử của khanh Hàn thị, cử chỉ đại gia, dịu dàng điềm tĩnh, hiền lương thục đức, công việc quản gia có độ...
Dương Lăng khẽ nhích đầu gối đang tê dại, thầm nghĩ trong lòng: "Con mẹ nó, đây nhất định không phải hoàng thượng viết, không biết hoàng thượng nghĩ như thế nào, đây đại khái là muốn thưởng cho mình, đoạn đầu sao nói nhiều thứ vô nghĩa thế!".
Kị sĩ trên lưng ngựa lấy hơi, tiếp tục nói:
- Nay thê tử của khanh Hàn thị hạ sinh Lân Nhi. Thông minh đáng yêu, nhân phẩm tuần tú, trẫm rất thích, thu nhận làm nghĩa tử...
Dương Lăng trong đầu uỳnh lên một tiếng, thân mình dường như bỗng nhiên bay lên:
- Ấu Nương sinh rồi, Ấu Nương sinh con trai cho ta rồi!
Dương Lăng vui mừng đến mức chỉ muốn hô to nhảy nhót, phía dưới nói chuyện gì, hoàn toàn nghe không thấy. Chỉ cảm thấy màng nhĩ ong ong, giống như uống hết hai cân rượu mạnh.
Kị sĩ trên lưng ngựa vẫn nói:
- Công lao của khanh, không gì kể hết. Nay cải phong đẳng nhất hầu, được liệt thổ phân mao (*), cả đời hưởng quốc ân. Thê tử của khanh Hàn thị, gia phong nhất phẩm Cáo Mệnh phu nhân. Ái tử của khanh, thụ Võ Đức tướng quân, thăng thụ Võ Tiết tướng quân. Con cháu của khanh tức là con cháu trẫm, con cháu trẫm hưởng phúc muôn đời, thì con cháu khanh hưởng lạc muôn đời. Một lòng với nước, thiên ngữ xán lạn, ghi vào sắc thư, cùng nhau giữ gìn. Khâm thử!
(*) chỉ thụ phong làm chư hầu. Thời cổ khi thiên tử phân đất phong hầu, dùng cỏ tranh bọc bùn đất trên xã đàn trao tặng cho người được phong, tượng trưng cho đất đai và quyền lực, được gọi là liệt thổ phân mao.
Dương Lăng mặc dù vốn là Hầu tước, nhưng lại không thể thế tập, hiện giờ thăng làm nhất đẳng Hầu tước, thì vị trí Hầu tước này đã có thể cha truyền con nối rồi. Đừng nghĩ rằng chỉ là sự khác nhau giữa có đẳng và không đẳng, nhưng đó lại là một bước lên trời cũng khó có thể vượt qua, quan viên xung quanh nghe xong đều kinh sợ ước ao không ngừng.
Về phần Hàn Ấu Nương, khi Dương Lăng được phong làm Trụ Quốc Thượng tướng quân, đã là nhất phẩm rồi, nhưng nhất phẩm phu nhân này cũng không phải cáo mệnh. Cáo mệnh thì có sắc thư, có quan bào, có bổng lộc, địa vị đãi ngộ hiển nhiên khác hẳn nhau.
Khủng khiếp nhất đó là đứa con trai bảo bối còn chưa nhìn thấy bộ dáng ra sao, tuy nói là tiểu hầu gia thế tập, nhưng phụ thân còn khỏe mạnh, nó không có bất kỳ tước vị chức quan gì. Hiện giờ được hoàng thượng thu làm nghĩa tử không nói làm gì, một tiếng mẹ còn chưa biết gọi đã thành ngũ phẩm Võ Tiết tướng quân, tuy là tán chức, nhưng cũng ăn bổng lộc triều đình.
Trước đó vài ngày còn truyền rằng Dương Lăng thất thánh sủng rồi, thì giờ ân sủng này rõ ràng là tột đỉnh. Dương Lăng căn bản không thấy được ánh mắt phức tạp của mọi người, nghe xong thánh chỉ thì mờ mịt quỳ bất động ở đó hồi lâu, trái tim sớm đã bay trở về thành Bắc Kinh, bay trở về hầu gia phủ, nghĩ tới ái thê và kiều nhi của mình.
Đối với vị thiên tử đệ nhất sủng thần này, kinh sai truyền chỉ cũng không dám đắc tội. Thấy hắn không tiếp chỉ, tên Cẩm Y Vệ đó liền nhảy xuống ngựa, cười dài rồi tiến lên trước đỡ hắn dậy nói:
- Chúc mừng hầu gia, mời hầu gia tiếp chỉ.
- Hả?!
Dương Lăng lúc này mới phản ứng lại, vội vàng hai tay tiếp nhận thánh chỉ, nói:
- Tạ ơn hồng ân của hoàng thượng!
Dương Lăng tiếp chỉ đứng dậy, Cẩm Y Vệ kia lại nói:
- Hoàng thượng đặt tên cho điện hạ. Hoàng thượng nói, cái tên này rất hay. Đại nhân muốn đặt tên cho con trai cũng được, nhưng khi lạc tịch thì phải viết tên do hoàng thượng đặt.
Dương Lăng vừa mới lấy lại tinh thần, nghe xong câu này liền thấy choáng váng. Lần trước hoàng thượng muốn giang sơn nhất thống, chu thọ vạn năm, liền thuận tay đặt cho mình một biểu tự gọi muôn đời. Vị hoàng thượng này làm việc có chút không đáng tin cậy, không biết lần này sẽ đặt cho con trai mình cái tên gì đây?
Dương Lăng lo lắng đề phòng mà nói:
- Vâng, thần tuân chỉ. Chỉ có điều không biết, hoàng thượng đặt cho con trai thần tên gì vậy?
Vị Cẩm Y Giáo Úy kia hít mũi một cái, vẻ mặt quái dị mà nói:
- Hoàng thượng ngóng trông điện hạ sớm ngày trưởng thành, có thể tận trung vì nước, cho nên đặt cho điện hạ tên là Dương Đại Nhân!
...
- Dương đại nhân, chúc mừng chúc mừng.
Quan viên bốn phía tiến lên cả loạt, vẻ mặt cực kỳ hâm mộ chắp tay chúc mừng.
- Ah ah, đa tạ đa tạ, cùng vui, cùng vui.
Dương Lăng dở khóc dở cười đáp lễ, chỉ cảm thấy cả người không được tự nhiên.
Dưới sự tháp tùng của thị vệ, Dương Lăng đi thăm hỏi quân doanh, triệu kiến quan viên địa phương, rồi đi một vòng quanh các thôn trang nông trại gần đó, cảm nhận một chút phong thổ nhân tình nơi đây. Mỗi khi đến một nơi, các quan viên nghe thấy Dương Khâm Sai có tin vui sinh con trai, được đương kim hoàng đế nhận làm nghĩa nhi can điện hạ thì không khỏi a dua nịnh hót một phen. Dương Lăng nghe thấy ba từ "Dương Đại Nhân" thì cả người luôn cảm thấy không tự nhiên, chắc hẳn Ấu Nương đang ở nhà cũng không biết nên khóc hay nên cười?
Trong đó có sáng ý nhất vẫn là câu nói chúc mừng của Lang Binh Tổng binh quan Tống Tiểu Ái "chúc mừng Dương đại nhân có thêm Dương Đại Nhân", làm cho Dương Lăng phải mở lòng, bật cười ha hả.
Trải qua hai ngày tìm hiểu, từ một Dương Lăng xuất bài không theo lẽ thường, trong lòng cũng ngầm có những tính toán đối với việc bình định. Khi hắn vừa đến Tự Châu, đã sắp xếp cho những lái buôn có qua lại với Đô Chưởng Man lên núi đưa tin, mời Đô Chưởng Man phái người nghị đàm với triều đình, cho tới hôm nay vẫn chưa có tin tức gì trở về, bây giờ xem ra khả năng động binh là rất lớn. Dương Lăng chuẩn bị triệu tập quan viên văn võ nghị sự, dù sao nội bộ cũng phải thống nhất bước đi rồi mới nói tiếp được.
Dương Lăng vừa mới chạy về doanh trại, không đợi hắn truyền lệnh tập hợp tướng lĩnh về doanh trướng thì Ngũ Hán Siêu liền vội đi đến, chắp tay nói:
- Đại nhân, mời mau trở về trướng, Liễu đại nhân có chuyện quan trọng cần bẩm.
Tống Tiểu Ái cũng trà trộn trong thân quân của Dương Lăng, thấy Ngũ Hán Siêu vừa nói ánh mắt vừa quét về phía mình, bèn giương cằm lên, mặt không biểu cảm nhìn anh ta, khiến Ngũ Hán Siêu không khỏi xấu hổ cười.
Hai ngày này Dương Lăng vui có ái tử, nhưng không phải che che giấu giấu giống như lần Liên Nhi sinh con, cho nên tâm tình vui sướng, cực kỳ cao hứng, thấy bộ dáng gàn bướng của cặp tiểu oan gia này, trong lòng hắn không khỏi thấy buồn cười. Hai hôm nay Ngũ Văn Định bận đốc thúc vận chuyển lương thảo, vẫn chưa bớt được thời gian, chờ chuẩn bị chút thời gian rảnh rỗi hắn sẽ tìm vị đại nhân ngang bướng này nói chuyện.
Tiểu Ngũ, Tiểu Ái tuy đang giận dỗi nhau, nhưng tình cảm giữa hai người đó rõ ràng không hề suy giảm, thỉnh thoảng giận dỗi cũng là một thứ gia vị, cho nên hắn cũng lười ra mặt giải hòa. Mấu chốt là ở chỗ Ngũ Văn Định kia, dù sao cũng phải giải quyết xong lão già này mới được.
Dương Lăng xuống ngựa, đưa cây roi cho thân binh rồi nói với Ngũ Hán Siêu:
- Ta biết rồi. Gọi quan viên văn võ lập tức đến đại trướng của ta, bản quan muốn tụ chúng nghị sự.
Nói xong dẫn theo Tống Tiểu Ái bước nhanh thẳng đến doanh trướng của mình. Liễu Bưu thấy Dương Lăng vội vàng chắp tay nói:
- Chúc mừng...
Dương Lăng khẩn trương ngắt lời nói:
- Cùng vui cùng vui. Nhưng thám thính được tin tức quan trọng của Đô Chưởng Man chưa?
Liễu Bưu lắc đầu nói:
- Ti chức vội vàng tới đây là vì nghe được một số tin tức bất lợi cho đại nhân. Nếu tin tức đã truyền vào trong núi, chỉ sợ sẽ vô cùng bất lợi cho thế tử.
Thần sắc Dương Lăng căng thẳng, vội hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì?
Liễu Bưu nói:
- Hiện tại khắp nơi đều loan truyền Dương Chém Đầu giết người như ngóe đã đến Tứ Xuyên, giam lỏng Thục vương, tước đoạt đại quyền quân chính của ông ta, muốn dụng binh động võ với Đô Chưởng Man, thậm chí tàn sát dân tộc. Ti chức đã bí mật bắt mấy người thẩm vấn, nhưng vẫn không tìm thấy được ngọn nguồn truyền bá tin tức. Đám người này cũng chỉ là những kẻ bảo sao hay vậy, nêng chức đã thả bọn chúng ra rồi.
Dương Lăng nhíu chặt lông mày:
- Chuyện này do kẻ nào bịa đặt? Đây chẳng phải đang ép thế tử chết sao? Tin tức một khi truyền vào trong núi...
Dương Lăng lo lắng đi lại trong phòng một lúc, ngẩng đầu lên lại suy nghĩ một hồi, chậm rãi nói:
- Tiếp tục điều tra, xem có tìm thấy được manh mối gì không. Đô Chưởng Man nhất định phái thám báo đi thăm dò khắp nơi, tin tức chắc chắn sớm đã truyền vào trong núi rồi. Nếu thế tử có nguy hiểm thì hiện tại chúng ta cũng đã ngoài tầm tay với, chỉ có thể lặng lẽ đợi tình thế phát triển. Ngươi đi trước đi, bản quan lập tức nghị sự với các quan viên văn võ.
- Vâng!
Liễu Bưu chắp tay, lắc mình lui ra ngoài.
Dương Lăng ngồi trở lại trước bàn, cầm chén trà từ từ suy tư lúc lâu. Tống Tiểu Ái nhu thuận ngồi một bên, chớp đôi mắt to tròn lẳng lặng nhìn hắn. Qua một hồi lâu sau, Ngũ Hán Siêu khẽ mở cửa phòng nói:
- Đại nhân, chúng quan viên đều đã đến đông đủ rồi ạ.
Dương Lăng gật gật đầu, thấy anh ta đang nhìn Tống Tiểu Ái, bèn nói:
- Ngươi lưu lại đi, bản quan tới tiền sảnh nghị sự.
Quan văn võ tướng tập hợp đông đủ, đang ngồi xì xào bàn tán trong soái trướng. Dương Lăng dẫn theo hai thân binh đi vào từ phía sau, trong trướng lập tức yên tĩnh trở lại.
Dương Lăng ngồi vào chỗ của mình trên công đường, nói:
- Chư vị, trong núi vẫn chưa có tin tức truyền ra, vậy mà phía chúng ta khắp nơi nổi tin đồn thổi. Bây giờ trong bách tính truyền rằng, bản quan đến Tự Châu là ôm mục đích chiến tranh, hơn nữa còn dấy binh sát tộc đối với Đô Chưởng Man, chỗ thế tử... có thể nguy.
Tự Châu Tri châu Phùng Kiến Xuân nghe vậy liền vội chắp tay nói:
- Đại nhân không cần lo lắng, đây chẳng qua chỉ là mánh khóe quen dùng của Đô Chưởng Man, bọn họ tập kích quấy rối khắp nơi, từ trước tới nay không phục vương pháp. Triều đình mỗi khi có dụng binh trừng trị, bọn họ liền phát tán ra những loại lời đồn tương tự, để kích khởi sự sợ hãi và lòng căm phẫn của chúng.
Đoạn tiếp theo là truyenyy nhưng đại ý là Dương Lăng đề nghị tiên lễ hậu binh.
Tứ Xuyên đạo Ngự Sử Tô Khắc cũng vuốt cằm nói:
- Có thể không động binh thì vẫn không nên động binh, đất Thục là trọng địa tây nam, phản loạn người Bặc nếu không nhanh chóng bình ổn, các bộ lạc dân tộc khác cũng theo đó nổi lên, Tứ Xuyên có thể yên bình sao? Tứ Xuyên không yên, giang sơn Đại Minh ta cũng sẽ chấn động. Năm đó dụng binh hai mươi vạn, qua bốn năm mà tấc đất cũng không thể. Một bài học thất bại. Bản quan cũng cho rằng, ngoài việc không đồng ý để Hán quan Hán dân rời khỏi Tự Châu ra, có thể cố gắng mang lại cho họ ít ưu đãi, biến thù thành bạn thì tốt hơn.
Dương Lăng từ từ quan sát mọi người, cuối cùng ánh mắt rơi trên người Chu Nhượng Cận, hắn chắp tay nói:
- Nhị vương tử, ý của vương tử thế nào?
Chu Nhượng Cận đại khái nói:
- Cái khó của đường Thục, còn khó hơn cả Hoài Tây Tắc Bắc, dụng binh xác thực là phi thượng sách, tại hạ cho rằng nên chiêu an là thích hợp nhất. Nếu không được cũng coi như lá mặt lá trái, cứu gia huynh ra trước. Tại hạ có dẫn đến một hảo hữu, huynh ấy quen thuộc các con đường thuộc những nơi cứ điểm của Đô Chưởng Man. Nếu không thể nghị hòa, xin đại nhân phái cho tại hạ một nhánh tinh binh, tại hạ muốn cùng hảo hữu dùng kỳ binh vào núi, giải cứu gia huynh.
Lời này của Chu Nhượng Cận rất có hào khí, chúng quan viên nghe xong lộ vẻ xúc động. Thục vương gia quả nhiên phụ từ tử hiếu, huynh hữu đệ cung, gia đình nề nếp, cẩn thận.
Nhưng Dương Lăng chậm rãi lắc đầu. Bây giờ truyền ngôn của Dương Khảm Đầu bất lợi cho thế tử, khó bảo đảm rằng sẽ không có người nghi ngờ Chu Nhượng Cận thủ lợi từ giữa. Vị nhị vương tử này hiện tại hoàn cảnh bất tiện, lần này chủ động xin đi giết giặc, anh ta muốn đánh bạc tính mệnh để thể hiện cõi lòng. Nhưng nếu không cứu được thế tử ra cũng đành, còn nếu ngay cả vị thứ tử này của Thục vương cũng bỏ mạng trong núi, vậy mình chẳng phải sẽ biến thành sao chổi thật rồi sao?
Tuy nhiên nghe ý này của Chu Nhượng Cận, hiển nhiên cũng tán thành chiêu an. Dương Lăng nhìn một lượt các quan viên, ánh mắt nhìn về phía trước, mí mắt hơi hơi nheo lại, nhìn chăm chú vào chiếc áo bào xanh ở một góc cạnh cửa ra vào. Nhìn màu sắc quan bào thì vị đó hẳn là một quan thất phẩm, trong đại trướng ai ai cũng lớn hơn anh ta, nên chen anh ta vào trong góc cửa.
Màn trướng nhấc lên, ánh mặt trời len vào trong, chiếu đứng lên ống tay áo của anh ta. Chỉ thấy quan bào màu xanh đó nhăn nhăn nhúm nhúm, đôi giày trên chân còn chắp vài mảnh vá. Trong lòng Dương Lăng không khỏi khẽ động. Tuy nói quan viên Đại Minh bổng lộc thấp, nhưng ai chả có miếng riêng, trông thảm như vậy tại địa phương nhất định danh tiếng không tệ, nói thế nào cũng là một thanh quan, nói không chừng anh ta có kiến giải gì đặc biệt.
Bởi ánh sáng bên ngoài rất mạnh, Dương Lăng nhìn không rõ bộ dạng của anh ta, bèn chỉ chỉ nói:
- Ngươi, là quan bản địa à, tiến lên trả lời.
Dương Lăng không thấy rõ người nọ, người nọ cũng không nhìn Dương Lăng. Loại hội nghị này thì hạng quan như anh ta, đến cũng chỉ như đồ bài trí, căn bản chen không nổi lời. Vị nhân huynh này hai mắt nhìn thẳng, nhìn chằm chằm hai con ruồi đang bay lượn đến xuất thần. Dương Lăng gọi anh ta, tất cả quan viên lũ lượt đưa ánh mắt về phía đó.
Cho đến khi một vị quan bên cạnh dùng cùi trỏ chọc vào người anh ta, vị nhân huynh này mới phát hiện sự yên lặng trong trướng, cả đống quan viên đang rót ánh mắt vào mình. Điều này làm anh ta hoảng sợ, vội vội vàng vàng đứng dậy tiến lên thi lễ nói:
- Hạ quan bái kiến Khâm Sai đại nhân.
Dương Lăng mặt lộ vẻ không vui, phật ý nói:
- Bản quan ở đây tụ chúng nghị sự, xem bộ dáng của ngươi là quan viên bản địa đúng không? Sao lại làm ra vẻ không liên quan đến mình như thế, đang đi vào cõi thần tiên nào hả?
Vị quan kia nhìn qua tuổi không lớn lắm, trông tướng mạo chỉ khoảng trên dưới ba mươi, nhưng không để râu, chắc chưa đến hai mươi tám, sắc mặt hơi vàng, nhưng ngũ quan trông khá sáng sủa. Người này bị hỏi vặn càng thêm kích động, vội gập người thi lễ nói:
- Hạ quan là Tri Huyện bản địa Yên Cao Tài, chỉ vì hạ quan người nhỏ, lời nhẹ, cho nên, cho nên...
- Thế thì đã sao? Làm sao phải cam chịu xem nhẹ mình như vậy. Yên Huyện Lệnh, Yên...
Dương Lăng đột nhiên nhớ tới hai ngày nay đi tìm hiểu xung quanh, quan sát địa thế, trong quá trình, đi đến hương dã từng xuống ngựa nói chuyện với thôn dân. Vì hắn không mặc quan phục, lại dễ gần, những thôn phu kia tuy nhìn ra là công tử quý giới, nghe giọng nói cũng là người bên ngoài, nhưng không ai đoán ra được hắn chính là Dương Chém Đầu đại ma đầu bị hình dung là kẻ mắt giống chuông đồng, miệng lớn dính máu, thích mổ bụng moi tim, giết người không chớp mắt.
Cho nên Dương Lăng chẳng những hỏi được tình hình của địa phương từ miệng bọn họ, đối với phong bình (chỉ lời bình luận, đánh giá) của quan viên bản địa cũng từ biểu cảm, ngữ khí của họ mà nghe được chút ý tại ngôn ngoại, rồi nghe ngóng chút từ chỗ Liễu Bưu, Dương Lăng mới biết vị này là Yên Cao Tài, ở địa phương căn bản là một người ai cũng không ưa, phong bình tệ đến cực điểm.
Người Hán ghét anh ta, người Đô Chưởng Man ghét anh ta, còn các tộc nhân tạp cư Tàng, Di, Miêu, Khương ở đây thì không một ai không chán anh ta. Chính lệnh của nhân huynh này không ra khỏi phủ, nói cách khác là ra khỏi nha môn Huyện thái gia thì không dùng được.
Dân chúng nơi đây dễ sinh sự, bọn nha dịch cũng không dám cưỡng chế chấp hành, kết quả là Yên Cao Tài trở thành Bồ Tát miếu thổ địa, giống như con rối gỗ, chính tích gì cũng không có, cho nên bị dân chúng đặt cho cả đống tên hiệu như: Yên đại thần, Yên hoại thủy, Yên vô tài...
Dương Lăng đến lần này, là để tiêu diệt và trấn áp Đô Chưởng Man, không muốn quản những chuyện nhỏ nhặt khác.
Đoạn tiếp theo là truyenyy đại ý là Yến Cao tài làm quan phụ mẫu không chăm sóc dân chúng mà kích khởi mâu thuẫn dân tộc nên biếm mũ ô sa của tên này và điều tới Nam Kinh Lại bộ chịu phạt. Yến Cao Tài thì than thở trên thì tham tài, điêu dân thì hung ác.
Phi trắng đen mà hỏi Hán Man phiên di trước, bùn nước lẫn lộn, kết quả là bênh Man Man không gần, lánh Hán Hán không thân, khiến cho hạ quan chịu ức hiếp trên đe dưới búa, uổng cho hạ quan thanh chính liêm khiết, tâm tư cao xa. Một lần làm quan, có ai thảm hơn hạ quan? Ai... dám... thảm... hơn... hạ... quan?
Dương Lăng giật mình, vị nhân huynh này nói đến mức chân tay múa máy, than thở khóc lóc, giống như trong đó rất có ẩn tình. Dương Lăng không phải người bảo thủ, cũng không chút để ý đến cái gì mà sự uy nghiêm của Khâm Sai, hắn vội trấn an vài câu, gọi người dọn chỗ ngồi cho vị Yên đại thần này, để nghe anh ta nói một cách rõ ràng.
Yên Huyện Lệnh xem ra cũng chẳng quan tâm đến, ngồi chẳng thèm ngồi mà cứ đứng vậy khoa tay múa chân trên đại sảnh, dõng dạc tố khổ. Người này tuy xuất thân là lưỡng bảng tiến sĩ, tài học đầy bụng, nhưng trong lúc kích động cũng nói năng lộn xộn, lời tới lời lui không đâu vào đâu, nghĩ ra gì thì nói đấy. Dương Lăng nhẫn nại nghe hồi lâu, cuối cùng cũng nghe được đại khái.
Hóa ra chuyện này lại phải bắt đầu nói từ ngày Đại Minh lập quốc. Năm đó Đại Minh giành được thiên hạ, Chu Nguyên Chương phân đất phong hầu cho người con trai thứ mười lăm là Chu Xuân tại Tứ Xuyên. Năm đó phiên vương được phân đất ở các nơi áp dụng phương pháp đóng quân và trấn áp bằng vũ lực đối với sự phản kháng hoặc ít hoặc nhiều của thuộc địa. Phần đông dân tộc đất Thục, lúc bấy giờ chịu sự thống trị của triều Nguyên đều đủ sự bức hiếp vũ lực. Cho nên thủ lĩnh các bộ tộc đều mang lòng kính sợ đối với kẻ thống trị mới của đất Thục này.
Tuy nhiên Chu Xuân có danh xưng "Thục tú tài" này khi đến Tứ Xuyên, lại không dấy binh mã mà dùng lễ giáo hậu đãi các tộc, còn mời đại nho Phương Hiếu Nhụ đến truyền bá giáo hóa. Đến lúc này thủ lĩnh các tộc trận địa sẵn sàng đón quân địch hết sức bất ngờ, chịu sự cảm hóa này, rất nhiều các bộ tộc đã tiếp nhận sự thống trị của Thục vương, Thục vương cũng vô cùng hậu đãi bọn họ. Không chỉ đã xác định được khu trực thuộc của các tộc, mà trên vấn đề kinh tế, luật pháp cũng hết sức khoan dung với bọn họ, và lấy điều này làm chính sách căn bản để yên ổn đất Thục.
Nhưng từ đó cũng gieo xuống một mầm tai họa, các đời Thục vương đều làm theo tổ tiên, hậu đãi chư tộc, nhằm thể hiện phẩm đức nhân hiền hậu ái của mình, đến nỗi đã có chút phóng túng và quá khoan dung. Mà các tù trưởng đời đầu nhận thức qua sự thống trị của Minh triều và Nguyên triều cũng sớm đã qua đời, những người kế thừa mới này từ nhỏ tập mãi thành quen với sự khoan dung hậu ái của Thục vương phủ, không chỉ không biết cảm ơn, ngược lại còn được voi đòi tiên.
Trong đó nổi bật nhất là Đô Chưởng Man với dân phong dũng mãnh, ít qua lại với người Hán. Ví dụ như năm thiên tai cứu đói, bởi vì chính sách lâu nay của Thục vương, triều đình phát ngân lượng cứu giúp thiên tai, đều cấp phát cho họ trước. Người Đô Chưởng Man không có thói quen để dành, nhận được tiền vật thì đổi hết sang rượu thịt, đến khi trắng tay bèn có lý chẳng sợ đi đòi tiếp. Điều này hiển nhiên khiến cho người Hán vốn đã thiếu vật phẩm cứu tế thấy bất mãn.
Quan viên địa phương mới nhậm chức được thượng cấp dạy bảo là phải biết lôi kéo trấn an, không được sinh sự. Tiền nhiệm lấy đại cục làm trọng như thế nào để bảo đảm sự yên ổn một phương, thì quan viên kế nhiệm tự nhiên cũng cẩn thận chặt chẽ, phàm là những chuyện liên quan đến Man tộc, đều nhìn trước ngó sau, kìm nén cơn giận.
Dân chúng Hán Man địa phương tập trung ở chợ để buôn bán giao dịch, thuế phú thu khác nhau, Đô Chưởng Man ít giao hoặc thậm chí không giao, các Thuế lại cũng phần lớn mắt nhắm mắt mở, nhưng đối với người Hán lại một xu cũng không cho. Việc giao dịch giữa Hán Man phát sinh tranh cãi, một khi ầm ĩ đến công đường, quan viên nhìn thấy một người trong số đó là người Đô Chưởng Man, liền có lý nghiêm trị người Hán, vô lý phạt nhẹ người Man, khiến cho đám người Man này càng thêm ngang ngược kiêu ngạo.
Loại quan phủ này thiên vị vô điều kiện, khiến người Hán giao dịch cùng bọn họ không có chút bảo đảm nào, thương nhân tự nhiên không muốn kết giao cùng bọn họ. Cứ như vậy bọn họ lại cho rằng người Hán kỳ thị bọn họ, vì thế mới phát sinh chuyện ép bán ép mua.
Tuy nói giang sơn này của người Hán, quan lại bản địa cũng người Hán, nhưng ở đây, người Hán ngược lại trở thành dân tộc thiểu số, hơn nữa quan phủ muốn dàn xếp ổn thỏa nên có thiên vị với người Man, sự oán hận chất chứa trong lòng người Hán mỗi ngày một nhiêu thêm, càng không còn cảm giác tin cậy thân cận với quan phủ triều đình.
Tuy người Man nhận được nhiều thiên vị, nhưng địch ý với Hán quan vẫn quá sâu, hơn nữa cho rằng triều đình và người Hán yếu đuối có thể bắt nạt, hành sự càng lúc càng trầm trọng hơn. Cứ như vậy, quan phủ không có bất kỳ sự giúp đỡ từ bên nào, cũng không thể phát huy tác dụng, trở thành một bài trí vô dụng, mâu thuẫn hai bên đang mất đi sự khống chế cũng mỗi lúc một nghiêm trọng hơn.
Dương Lăng nghe đến đó, lắc đầu nói:
- Uốn cong thành thẳng! Lấy căn do để giới định sự khoan nghiêm của luật pháp, lấy sự giàu nghèo để giới định độ dày mỏng của thuế phú và cứu tế là hoàn toàn chính đáng, không gì đáng trách, tin rằng bất kỳ ai cũng không nói ra được lý do để phản đối. Nhưng nếu lấy chủng tộc để giới định những điều đó, thì loại bất bình đẳng này chỉ sẽ tạo thành ghen ghét, đố kị, oán hận càng tích càng sâu, sẽ có ngày hậu tích bạc phát.
- Woa!
Yên Huyện Lệnh vừa nghe lời này như gặp tri ân, hưng phấn đến đỏ bừng cả mặt mày, chạy đến trước mặt Dương Lăng nước miếng bay tứ tung mà nói:
- Hạ quan từng đem chuyện này dâng thư lên Nam Kinh Hộ bộ, đem chuyện ưu ái hậu đãi, giáo hóa lôi kéo hiện nay đã biến tướng thành đặc quyền chiếu cố, gieo hại vô cùng. Hiện tại người Man cảm thấy tự mình có thể giỏi hơn quan phủ, thêm chút quản chế liền kêu gào ầm ĩ, căn bản không coi triều đình ra gì. Hành động này cũng đã làm thương tổn đến dân chúng người Hán định cư tại đây, khiến họ hoặc là phải tha hương cầu thực, hoặc là đã có ân oán thì phải cùng giải quyết, từ đó cũng không còn quan tâm đến sự hiện diện của triều đình nữa. Kết quả việc ti chức nuốt giận vào trong, dung túng Đô Chưởng Man chính là Đô Chưởng Man không coi ti chức ra gì, người Hán hận hạ quan thấu xương, người dân các bộ tộc khác bị Đô Chưởng Man ức hiếp cảm thấy buồn lòng vì cách phán án bùn nước lẫn lộn của hạ quan. Uy tín của Huyện nha xuống dốc không phanh, dân chúng có việc căn bản cũng không cáo lên Huyện nha nữa. Thuế lại xuất hiện trên đường phố bọn họ cũng oán hận trong lòng, ngập đầy lửa giận, thường xuyên sinh chuyện gây hấn... hạ quan thực sự cũng có miệng mà khó trả lời.
Dương Lăng bất động thanh sắc xoa xoa nước miếng trên mặt, bỗng nhiên nhớ tới những mẫu chuyện rời rạc ở kiếp trước. Chuyện trước kia trong trí nhớ của hắn đã phai nhạt từ rất lâu rồi, nhưng ngay lúc này lại hiện lên mồn một.
Đó là lúc vừa mới đi làm không lâu, đi tới một thành phố nọ du lịch, bị một người đàn ông địa phương đeo đao, mặt để râu trông rất hung tợn ép bán cho hắn một miếng "ngọc thạch". Miếng ngọc thạch đó bằng quả trứng gà to, từ tám trăm tệ chủ động giảm xuống còn tám mươi tệ, tìm ai để nói lý đây. Cảnh sát và nhân viên quản lý thị trường đều chỉ biết khuyên hắn dàn xếp ổn thỏa, hắn cũng chỉ biết bỏ tiền mua bình an mà thôi.
Ôi! Lúc đấy nếu như có những người anh em tử trung như Ngũ Hán Siêu hoặc là Lưu Đại Bổng Chùy, thì đâu phải chịu ức như vậy. Đem sự ưu đãi giúp đỡ đối với các địa khu lạc hậu biến chất thành đặc quyền trên cở sở bất công chính, bất bình đẳng để đối xử với các chủng tộc khác, chỉ càng khiến họ không ngừng nhắc nhở bản thân về sự ưu việt cảm tính và bất đồng của chủng tộc, khai mào sự phẫn nộ của những người chịu sự đối đãi bất công. Thời gian càng lâu, loại mâu thuẫn này cũng ngày càng sâu sắc. Chính sách này của Thục vương, tuy có thể giữ được sự bình an nhất thời, nhưng sao có thể ổn định và hòa bình lâu dài?
Dương Lăng nâng cằm lên khẽ thở dài, lúc này mới thấy Yên Huyện Lệnh đang nhìn thẳng vào hắn, vội vàng gật đầu nói:
- Hừm, bản quan hiểu rồi, chuyện này tuy ngươi có trách nhiệm, cũng là thói xấu lâu ngày của quan trường nơi đây, không phải tội của mình Yên đại nhân. Vừa rồi bản quan có hơi kích động, mong Yên đại nhân bỏ quá cho, mời mặc lại quan y và ngồi xuống nói chuyện.
Yên Huyện Lệnh chắp tay nói:
- Đa tạ đại nhân, ti chức đang muốn nói khởi nguyên của chuyện này.
Dương Lăng tinh thần rung lên nói:
- Ô, lần tranh chấp này nguyên nhân từ đâu mà ra, Yên đại nhân biết sao?
Yên Huyện Lệnh nói:
- Vùng này có một hộ gia đình họ Liễu, mở xưởng dầu. Một ngày nọ có mấy người Đô Chưởng Man mang chim trĩ săn được tới cửa đổi dầu, thấy con gái nhà người ta xinh xắn bèn buông mấy câu trêu chọc. Người Hán chúng ta tập sống nghiêm cẩn, nên thấy rất khó chấp nhận. Chủ quán giận dữ, bèn đuổi bọn họ ra ngoài, không muốn đổi dầu với bọn họ nữa. Kết quả là mấy người Đô Chưởng Man đó mắng ông ta mấy câu, rút đao đâm chết ông ta. Hạ quan hổ thẹn. Trên huyện lị quả thực không đạt được gì, nhưng mạng người quan trọng, chuyện này không dám ngoảnh mặt làm ngơ, cho nên sau khi bản huyện nghe hỏi liền dẫn theo nha sai truy đuổi tên hung đồ kia, đến Đồng Cổ lĩnh thì bắt kịp chúng, tóm được ba tên. Trên đường áp giải về huyện thành, người trong thôn trại bọn họ nghe tin chạy đến, khoảng trăm người tay cầm đao thương, hùng hùng hổ hổ. Hạ quan vô năng, chỉ có thể dẫn theo nha sai chạy trốn, còn người thì bọn họ cướp đi. Ba ban nha dịch Tạo, Tráng, Khoái của bản huyện, cộng thêm người hầu, lính coi ngục, kiệu phu tổng cộng gần trăm người, thật sự khó mà đối phó được với đám hung đồ không có vương pháp này. Bản huyện lại không có trú quân, hạ quan chỉ đành gửi công văn cầu cứu Tri Huyện đại nhân.
Đăng bởi | Mr. Robot |
Phiên bản | Dịch |
Thời gian | |
Cập nhật | Cẩuca |
Lượt thích | 4 |
Lượt đọc | 281 |