Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Chiến Trường Vô Phụ Tử, Binh Bất Luận Hùng Thư

Phiên bản Dịch · 17355 chữ

Yên Cao Tài mặt đỏ bừng lên, còn chưa kịp lui ra, A Cáp Bối đã ngửa mặt lên trời cười ha hả, dương dương đắc ý mà nói:

- Người Hán các ngươi là vô dụng nhất. Đại vương tử của các ngươi trong tay bọn ta, nói có lợi hại đến đâu ta cũng không hiểu. Có điều hôm nay nếu các ngươi không đáp ứng yêu cầu cắt đất giao tiền cho đại vương nhà chúng ta, thì đại vương tử của các ngươi sẽ bị mất đầu.

- Không thể!

Chúng quan viên văn võ cùng kinh sợ kêu lên ngăn lại.

Chỉ có Yên Cao Tài nắm chặt hai tay, ngửa mặt lên trời cười to, tiếng cười như thốc thẳng lên mái nhà. Nhất thời quan viên văn võ ngơ ngác nhìn nhau, ngay cả hai tên người Man A Cáp Bối cũng ngây ngẩn cả người. Chỉ có Dương Lăng nhéo cằm, bất động thanh sắc nhìn anh ta.

Dương Lăng mặc dù không biết anh ta có lời gì muốn nói, tuy nhiên loại sự việc này cũng đã nghe nhiều, thấy nhiều, phàm là văn nhân cười không ngẩng như thế, nhất định trong lòng đã có dự tính, muốn nói ra ý kiến mang tính quyết định, khiến người ta khó được biểu hiện, đương nhiên phải rất phối hợp mới phải.

Quả nhiên, chỉ thấy Yên Cao Tài tiếng cười to không dứt, rốt cục ho hai tiếng, mới vừa cười vừa thở mà chỉ vào A Cáp Bối lớn tiếng nói:

- Ngươi muốn lấy tính mạng của thế tử để uy hiếp triều đình cắt đất giao tiền chuộc sao? Man di bé tẹo, kiến thức nông cạn, có từng nghe nói qua Đại Minh chính thống mười bốn năm, 'Sự biến Thổ Mộc Bảo' chưa?

Mọi người vừa nghe xong thì: Xong rồi, lời này của Yên xấu xa vừa nói ra, thế tử Chu Nhượng Hủ không cần cứu nữa rồi.

Một câu của Yên Cao Tài ngầm có sát cơ vô hạn, quan viên văn võ muốn vốn thống nhất chủ ý lấy sự an nguy của thế tử làm hàng đầu lập tức miệng câm như hến, không còn nói ra được câu phản đối nào nữa.

- Ngươi lấy tính mạng của thế tử để đe dọa triều đình cắt đất giao tiền, để Đô Chưởng Man tự lập làm vương sao? Ngươi có biết 'Biến cố Thổ Mộc Bảo' năm đó hoàng đế chính thống rơi vào tay Ngõa Lạt Thái sư, triều đình Đại Minh đã xử lý như thế nào không?

A Cáp Bối đương nhiên không biết, nhưng quan viên văn võ có mặt tại đây có ai không biết? Sau khi hoàng đế Đại Minh bị bắt đi, triều đình không cùng Dã Tiên đàm phán bất kỳ điều kiện nhục quốc nào, cuối cùng Dã Tiên cũng chủ động hạ thấp tiêu chuẩn trước, chỉ đòi tiền tài không cầu đất đai, triều đình Đại Minh căn bản cũng không thèm chú ý tới, thà lập tân quân khác. Hoàng hậu bất đắc dĩ, chỉ có thể đem tiền riêng của mình cộng thêm một ít tiền vàng từ nhà mẹ đẻ gom góp tới đưa đi, hy vọng hoàng đế có thể được tha.

Thử hỏi cửu ngũ chí tôn của đại triều bị bắt đi, triều đình đều không cò kè mặc cả với Ngõa Lạt, vậy thì làm một Đô Chưởng Man dưới sự trị vì của Đại Minh mang ý đồ tạo phản, bắt thế tử của Thục vương làm con tin, triều đình có thể đáp ứng ngươi bất kỳ điều kiện nào, khích lệ dáng vẻ kiêu ngạo của ngươi sao?

Câu này Yên Cao Tài hỏi rất lợi hại, anh ta căn bản không phải đang hỏi A Cáp Bối, mà là đang chất vấn quan viên văn võ ở đây. Đến lúc này cho là một Khâm Sai như Dương Lăng cố ý nhường, chúng quan viên cũng không dám công nhiên chủ trương đàm điều kiện với Đô Chưởng Man, thỏa hiệp nhượng bộ, lấy sự hy sinh lợi ích của địa phương và triều đình làm điều kiện đổi sự tự do cho thế tử. Cái đuôi nhỏ này bị người ta túm trong tay, không biết lúc nào đó sẽ đòi cả mạng người.

Thấy chúng quan viên văn võ im miệng không nói, Chu Nhượng Cận vẻ mặt lo lắng, trên trán đã thấm ướt mồ hôi. Nhưng ở trường hợp như vậy, với thân phận của gã và nhân vật đại biểu phía sau, càng không tiện để yêu cầu thỏa hiệp.

Dương Lăng vốn không muốn vì một tháo tử chỉ biết chấp hành chính sách bình định, tự động dâng tới cửa để người ta bắt làm con tin mà khiến cho mấy vạn đại quân sợ đầu sợ đuôi, chịu nhiều trói buộc. Mạng của thế tử là mạng, chả nhẽ những binh lính vác thương vì nước lại không phải là mạng?

Lúc này đã có được cái cớ danh chính ngôn thuận, Dương Lăng không cần phải e dè sắc mặt của Thục vương, ngữ khí cũng trở nên cứng rắn và mạnh mẽ hơn. Tính cách người Đô Chưởng Man thẳng thắn, đàm phán lại không dùng lời nói sắc bén, A Cáp Bối một mực chắc chắn trừ phi triều đình nhượng lại Từ Châu, nếu không quyết không phóng thích thế tử.

Dương Lăng mắt thấy căn bản không có chỗ trống để thương lượng cùng bọn họ, liền rõ ràng trực tiếp nói:

- A Cáp Bối, trở về nói với A Đại tù trưởng của các ngươi rằng, bản Khâm Sai phụng chỉ hoàng đế tuần thú thiên hạ, Đô Chưởng Man tùy ý làm bậy, đã đúc thành sai lầm lớn, hy vọng ông ta quay đầu đúng lúc, phóng thích Thục vượng thế tử, đến chịu đòn thỉnh tội với bản Khâm Sai.

Bản Khâm Sai vẫn câu nói đó, mặc dù ông ta cướp bóc một số huyện, giết người vô số, tội hành chồng chất, chỉ cần ông ta quay đầu đúng lúc, chịu xuống núi trở về trong thôn trại, không tiếp tục dựa vào nơi hiểm yếu để chống lại triều đình, bản Khâm Sai vẫn có thể thay mặt triều đình xá tội, chuyện cũ bỏ qua. Ông ta vẫn là thổ ty thế tập được triều đình thừa nhận, lợi ích cá nhân sẽ không chịu bất kỳ tổn thất nào. Đây là sự nhượng bộ lớn nhất mà triều đình có thể làm.

Dương Lăng từ từ đứng dậy, từng bước đi xuống khỏi soái án, nghiêm nghị nói:

- Mấy vạn đại quân của bản quan sẽ không chờ đợi vô kỳ hạn, trở về nói với A Đại, bản Khâm Sai hạn định trong bảy ngày bắt đầu từ ngày mai. Sau bảy ngày, nếu A Đại không phóng thích thế tử, không xuống núi quy hàng, thì đó là lúc bản quan diệt phỉ bình định.

Đám người A Cáp Đại đã quen với sự khắc chế dễ dàng trong quá khứ của triều đình đến mức không coi ai ra gì, cộng thêm bọn họ nhớ mãi không quên chiến tích huy hoàng trong năm Thành Hòa hai mươi vạn đai quân của triều đình cũng không làm gì được của bọn họ, cho nên không chút phật lòng với sự uy hiếp của Dương Lăng. A Cáp Đại khinh miệt cười lạnh một tiếng, quyệt miệng chắp tay một cái, rồi cùng tên thủ hạ kia nghênh ngang rời khỏi soái trướng.

Dương đại soái gặp qua Hoa Đương, Bá Nhan và Hỏa Si, ở Giang Nam diệt mấy vạn giặc Oa, chiêu hàng tứ đại hải tặc, đông nam thu phục Malacca, tư lệnh hải quân Bồ Đào Nhà xin hàng, quốc vương Malacca cung kính tạ ơn, làm sao nghĩ đến được ở Tự Châu nho nhỏ này, không ngờ lại bị một bộ hạ của thổ ty nho nhỏ miệt thị như thế, thị vệ dưới tay ai ai cũng tức giận trong lòng, còn Dương Lăng thì thần sắc vẫn tự nhiên, vô tư không thèm chú ý tới.

Cho đến khi bóng của A Cáp Bối đi xa hẳn, Dương Lăng mới cười dài nói:

- Yên Huyện Lệnh, nghe nói nơi đây vào thời Cổ Hán triều từng lệ thuộc nước Dạ Lang?

Yên Cao Tài quả thực đúng là tài cao (Hán Việt là Cao Tài đúng với tên), đối đáp trôi chảy mà nói:

- Đại nhân học thức uyên bác, thủ đô nước Dạ Lang nằm ở Quý Châu hiện nay, nhưng lãnh địa của Dạ Lang vương xác thực từng kéo dài suốt các khu vực bộ phận Vân, Quý, Xuyên, cho nên mới kiêu ngạo, ngông cuồng tự đại, hỏi ra câu "Hán và ta ai lớn hơn?" khiến thế nhân cười ngàn năm.

Dương Lăng sau khi nghe xong ngẩng đầu cười to.

Tiếng cười vừa dứt, Dương Lăng phất ống tay áo xoay người, bước nhanh trở về trước soái án, vỗ kinh mộc đường, cao giọng quát:

- Văn quan võ tướng, trở về tự chuẩn bị chiến đấu, sau bảy ngày, bản soái sẽ thẳng đường. Tất cả lui.

Nghị sự trong soái trướng kết thúc, Dương Lăng giữ lại một mình Yên Cao Tài, nghị sự riêng với anh ta.

Yên Cao Tài mừng thầm, xem ra mình cuối cùng cũng nhận được sự chú ý và thưởng thức của Dương đại nhân rồi. Vừa rồi anh ta ngồi đó kinh ngạc sững sờ, đúng lúc trong lòng có một nan đề khó hiểu. Giờ phút này thấy Dương Lăng vẫn còn công việc diệt phỉ muốn anh ta cố vấn, vừa khéo đem chuyện này cầu cứu Dương Lăng trước.

Đợi chúng quan viên đều ra ngoài hết, Yên Cao Tài mới chỉnh ngay ngắn mũ quan, khom người thi lễ nói:

- Đại nhân đã không loại bỏ chức vụ của hạ quan, thì hạ quan vẫn là Huyện Lệnh của nơi này. Sau khi Đô Chưởng Man cướp bóc phóng hỏa, rất nhiều bách tính không nhà để về, áo không gạo không, cộng thêm những dân chạy nạn từ các huyện lân cận tới, số lương thực tồn trong nha của hạ quan đã cạn rồi.

Hạ quan vừa rồi hoảng hốt thất thần, chính là vắt óc suy nghĩ xem có biện pháp giải quyết nào không. Nếu không kịp thời phát gạo tới, hạ quan lo lắng người dân vốn mang lòng oán hận sẽ gây sự. Nỗi khổ này, hạ quan thay mặt cho dân chúng chịu khổ một phương, xin Khâm Sai đại nhân thương xót...

- Hả? Ừ... việc trấn an nạn dân, vốn chính là một chuyện lớn. Các chuyện khác tạm thời gác lại, bản quan và ngươi cùng đi, trước mắt thăm hỏi một chút số nạn dân này, nắm rõ chút tình hình. Dương Lăng cũng ngẩn ra rồi mới nói.

Hắn đi đến trước soái trướng, ngầm nghĩ một chút rồi phân phó với thị vệ:

- Gọi Lý Chỉ Huy, Phong Tham Chính, Tô Ngự Sử, Phùng Tri Châu lên đây, bọn họ cũng được xem là quan phụ mẫu của đất Thục, nên đi xem xem.

Lập tức Dương Lăng liền sai người ra phía sau trướng gọi Hán Siêu, Tống Tiểu Ái đến. Cặp oan gia đến trước trướng, Tống Tiểu Ái chu đôi môi anh đào, mang bộ mặt hờ hững với Ngũ Hán Siêu, nhưng phong tình trong khóe mắt ấy, lại như đã nguôi giận từ lâu. Chắc chắn rằng vừa rồi Ngũ Hán Siêu nói không ít chuyện tếu, pha trò cộng thêm với những cử chỉ chân tay.

Dương Lăng là người từng trải, chỉ hiểu ý cười, liền chỉ bảo hai người suất lĩnh thị vệ cùng hắn và Yên Cao Tài, Phong đại nhân cùng quan viên ra khỏi quân doanh.

Yên Cao Tài vội vội vàng vàng chạy về Huyện nha trước, triệu tập tam ban nha dịch, nhanh chóng phân phó cho Ban đầu đi gọi người, sau đó anh ta lại đến sân thứ hai phía trong, vừa vào trong liền vội vàng hô:

- Lý Chủ Bộ, Lý Chủ Bộ, làm được bao nhiêu lương thực rồi?

Đây là huyện nhỏ, nên các nha môn và huyện nha đều gộp vào nhau, sân thứ hai này là tư khố, lúc này cửa kho mở rộng, bên trong một thanh âm kỳ quái nói:

- Ta nói nghe này Yên đại nhân, cái kho này bây giờ ngay cả một con chuột cũng không nuôi nổi, còn lấy đâu ra gạo nữa chứ? Đám điêu dân kia, bình thường không coi Huyện đại lão gia ra gì, sao phải phí tâm lo cho chúng chỉ...

Vừa nói, từ trong kho một người đàn ông trung niên thấp béo đi ra, để bộ râu lông chuột, vẻ mặt láu cá. Đại khái chính là một con cá bơi chốn quan trường như những gì mà Yên Cao Tài nói trong soái trướng rồi.

Gã híp đôi mắt bong bóng cá tùy tiện đi ra, liếc mắt nhìn đám người trong sân. Bên cạnh Yên Huyện Lệnh là một người thân hình thon cao, áo mãng bào đai ngọc, phía sau có một đám quan viên đi theo, quan phục thêu chim chóc, ai ai nhìn cũng chói mắt, khiến người này không khỏi hoảng sợ.

Tâm tư của gã chuyển cũng nhanh, lập tức tỉnh ngộ nhận ra người trước mắt là ai, gã vội vàng bước lên trước, "phù" một tiếng rồi quỳ sụp xuống đất, dập đầu như băm tỏi mà nói:

- Hạ quan Lý Dung bái kiến Khâm Sai đại nhân, bái kiến chư vị đại nhân.

Dương Lăng khẽ quan sát, thấy người này áo bào sạch sẽ, không vương hạt bụi nhỏ, biết vừa rồi gã ở trong kho cũng chỉ là làm việc qua loa, căn bản không dùng tâm để nghĩ biện pháp cho bách tính. Tuy nhiên Dương Lăng đã làm qua Trạm Thừa, cũng biết cho dù vị Chủ Bộ này có dùng tâm đi chăng nữa, thì quét sạch chút lương thực nơi đáy kho đó quả thực cũng không đủ một bữa cho một người ăn.

Hắn khoát tay áo nói:

- Yên Huyện Lệnh, xem ra trong kho quả thực không đủ lương thực để cứu tế rồi. Như vậy đi, Lý đại nhân, ông xem để Mã Tri Châu viết một giấy nợ, tạm thời mượn một phần từ trong quân lương, đợi châu phủ phát lương thực thì trả lại, như vậy sao hả? Dù sao cũng không thể để những bách tính kia mang cái bụng đói được.

Hắn chắp tay nói:

- Thục vương nhân hậu yêu dân, ta tin nếu như vương gia ở đây, nhất định cũng sẽ đồng ý lấy dùng kế ngộ biến tùng quyền này cứu vạn dân trong nước lửa.

Phong Tham Chính vốn định muốn chỉ ra điều này không hợp với quy chế, nhưng vừa nghe đến câu này thì liền nuốt ngược lời vào trong. Lý Sâm hiển nhiên sẽ không làm trái lời Dương Lăng, lập tức nhận lệnh, phân phó thân binh dẫn theo vị Lý Chủ Bộ kia nhanh chóng đi vận chuyển lương thực.

Quân lương vận chuyển đến, Yên Cao Tài liền cùng Dương Lăng và các quan viên đi khắp nơi giúp nạn thiên tai dựng lều phát cháo, hỏi thăm tình hình dân chúng. Những nạn dân này phần lớn đều lập trung tại mấy nơi rộng rãi như sân phơi lúa, miếu Thành Hoàng, và am Thủy Long. Họ mới vừa chạy nạn đến chưa mấy ngày, cộng thêm thời tiết không lạnh, cho nên trông ai cũng đầu bù tóc rối, nhưng khí sắc nhìn cũng không tệ lắm.

Chỉ có điều trông họ rất đờ đẫn, ánh mắt lạnh lùng, nhìn mấy vị Huyện thái lão gia bận tới bận lui, thu xếp gọi người nhanh chóng nấu cháo phát cháo, hỏi han ân cần với chúng dân, lại không hề có chút ý cảm kích thân cận nào, càng giữ khoảng cách với các quan lớn.

Tô Ngự Sử không vui thấp giọng trách mắng:

- Dân phong nơi đây quả nhiên bất hảo, quan phụ mẫu một huyện chạy tới chạy lui, chăm lo bữa cơm cho bọn họ, Khâm Sai đại nhân đích thân đến thăm, lại không biết cảm ơn, không hiểu tình lý như vậy.

- Hỏi gốc rễ sự việc, rốt cuộc ai nuôi ai? Ai mới liền biết ơn đây?

Dương Lăng nghe những lời đó thì chỉ khẽ lắc đầu, không lên tiếng.

Lúc này, có một thiếu niên cầm cái bát lớn để Khâm Sai đựng cháo, gật đầu khom lưng nói một tiếng "cảm ơn quan gia", lời còn chưa dứt liền bị một người đàn ông nhiều tuổi giành lấy cái bát, giật cổ tay cậu thiếu niên lôi đi.

Người nọ vừa đi, bên cạnh liền có tiếng mắng chửi hung tợn:

- Ranh con, cảm cái gì mà ơn? Nếu không phải cái đám nuông chiều sinh hư, dung túng bất pháp này, thì nhà chúng ta có bị đốt hay không? Cả nhà chị họ ngươi có bị người ta giết hại hay không? Bọn chúng cho ngươi một bát cháo thì có đáng gì mà cảm ơn? Bọn chúng cho người khác một miếng thịt, người ta còn chẳng coi ra gì nữa kìa. Phì.

Người nọ vừa nói vừa đi, thanh âm không lớn, nhưng mấy vị quan viên bên cạnh Dương Lăng đều nghe thấy rất rõ ràng.

- Tên điêu dân lớn mật này...

Phùng Kiến Xuân trỏ tay hét lớn.

- Phùng Tri Phủ...

Dương Lăng uể oải gọi gã một câu.

- Có hạ quan.

Phùng Kiến Xuân vội vàng buông tay xuống, lời nói nhỏ nhẹ nói.

Dương Lăng lại không nói nữa, chỉ chậm rãi đi về phía trước theo đoàn xe chớ lương, lặng lẽ nhìn Yên Tri Huyện và Huyện thừa, Chủ Bộ cùng tam ban nha dịch lúc nãy đang ra sức hơn ai hết phân phát lương thực.

Đi một vòng khắp các nơi giúp nạn thiên tai, cuối cùng đi ra từ sân phơi lúa, đoán chừng tổng số dân chạy nạn khoảng ba vạn, trong đó rất nhiều người còn bị thương. Dương Lăng bước đi thong thả lên một cây cầu gỗ, dưới cầu nước trong xanh róc rách, rong rêu tốt tươi bập bềnh trong dòng nước ven bờ, mấy nhánh sông nhỏ từ hướng bên chảy tới đổ vào trong dòng chảy trong suốt.

Dương Lăng ngắm nhìn mặt nước rất lâu, chung quan viên đều im lặng đứng vây xung quanh. Hắn ngẩng đầu, nhìn sang phố xá tiêu điều, rồi lại đánh ánh mắt về phía bức tường đổ nát vừa mới bị đốt cháy đen thui bên trái đường, sau đó nói với quan viên quanh mình:

- Chư vị đại nhân, bản quan làm việc tại Nội Xưởng, người quản lý Nội Xưởng là Thần Cơ doanh Tả Tiêu quân. Bản quan từng đánh trận ở Giang Nam, chủ lực của ta là hai vạn tinh nhuệ được ta giáo huấn từ trong quá trình tác chiến. Một nha môn, một nhánh quân đội, thậm chí một quốc gia, luôn có dòng chảy chính, dòng chảy phụ.

Nếu muốn thái bình, chỉ có cố gắng hướng mọi dòng chảy phụ đổ về dòng chảy chính. Nếu lấy sự việc thương tổn dòng chảy chính để thỏa hiệp với các dòng chảy phụ, dòng chảy chính đều đã mất đi lực ngưng tụ và cảm giác trung thành, như vậy các dòng chảy phụ sẽ đổ về phương nào đây? Lấy lễ giáo coi giữ Tây thùy, quan tâm giúp đỡ là quốc sách của Đại Minh ta. Dùng võ lực để trấn áp, dùng cường thế để làm khuất phục xưa nay không phải bản sắc của người Hán ta.

Nhưng có một điều: bảo đảm cả tộc của bọn họ không bị ức hiếp, thiết lập Thổ quan lấy di trị di, gặp tai họa thì ưu tiên cứu tế, cái này đều có thể. Nhưng về mặt triều chính, luật pháp, kinh tế, giáo hóa, đều tuyệt đối không cho phép bọn họ thoát ly khỏi sự tồn tại của Đại Minh, coi quyền lợi của bộ tộc trên cả triều đình, nếu không sẽ chỉ có thể như cố ý nhắc nhở chúng siêu việt hơn người Hán, đừng sống chung với người Hán. Đồng thời lại sẽ khiến cho người Hán ghen ghét, căm hận bọn họ, mong cho bọn chúng sẽ không sống cùng mình. Thử hỏi như vậy, làm sao có thể an định đây?

Trăm sông hợp thành biển, là chiều hướng phát triển. Tốt xấu rõ ràng từ những việc mà con người làm ta, đến cuối cùng chỉ có thể gây thành sụp đổ. Lần này là một giáo huấn, loại giáo huấn này chưa từng mất đi trong các xung đột cả trăm năm nay, đáng tiếc vẫn không có ai tạo nên sự chú ý.

Khổng Tử nói: người có quốc gia có nhà cửa không lo của cái ít mà lo của cải chia không đều, không lo nghèo khổ mà lo sống không yên ổn. Của cải chia công bằng thì dân không nghèo nữa. Dân yên ổn thì không lo nước nhà ngả nghiêng nữa. Công bằng ở đâu? Nếu không công bằng sao có thể yên ổn? Không kỳ thị và không dung túng cho bất kỳ một tộc nào, mới có thể khiến cho mọi người sống hòa bình với nhau, thân như một nhà, để họ cảm thấy như thuộc về cùng một quốc gia, có lợi ích chung, gánh vác trách nhiệm chung, lấy việc coi mình là con dân Đại Minh mà sản sinh lòng trung thành. Ta hy vọng, chúng ta có thể hợp mưu hợp sức, cùng giải quyết tối chuyện này, nhất lao vĩnh dật (làm một mẻ, khỏe suốt đời), tạo phúc một phương.

Ánh mắt hắn quét trên mặt từng chúng quan viên. Chúng quan viên tuy im lặng không nói, nhưng những gì hôm nay mắt thấy tai nghe hiển nhiên đã có sự kích động quá sâu đến bọn họ, cho nên đã không có ai nói lời phản đối.

Dương Lăng đột nhiên nhìn thấy Tống Tiểu Ái và Ngũ Hán Siêu một tả một hữu, tự dẫn theo bảy tám thị vệ đứng ở góc đường, cánh giác quan sát xung quanh, trong lòng không khỏi thấy ấm áp.

Tống Tiểu Ái cũng là thủ lĩnh thổ ty, còn có Thác Bạt Yên Nhiên con gái của Thác Bạt Vũ thổ ty người Ô Tư Tạng, bọn họ một người có quan hệ chặt chẽ với Thục vương phủ, bạn tốt của nhau, người kia không chỉ chung sống hòa hợp với người Hán, hơn nữa còn đảm nhiệm nghĩa vụ cho triều đình, nhiều lần lập chiến công khi diệt giặc Oa ở Giang Nam, nhận được sự hoan nghênh và kính trọng của dân chúng nơi đây.

Có thể thấy được, chỉ cần quan hệ qua lại xứ lý thỏa đáng, họ có thể thân với người Hán như anh em, có nhận thức tương đồng với triều đình. Mà chính sách của quan viên đất Thục áp dụng cho dân tộc Đô Chưởng Man có tính chất biệt lập quá mạnh mẽ này rõ ràng rất không thích hợp, mới ủ thành ác quả như thế này.

Kỳ thực người Hán có cho rằng người Man ngu muội hay không, có khinh bỉ miệt thị hoặc là bắt nạt họ? Khẳng định cũng có, hơn nữa có rất nhiều người như vậy là đằng khác, cha của Tiểu Ngũ phản đối con trai mình và Tiểu Ái qua lại với nhau như vậy, há chẳng phải là do loại tâm tính này tác động hay sao.

Điều đó cùng giống như sự kỳ thị giữa giàu và nghèo, hay sự kỳ thị giữa người đọc sách và thương nhân. Vấn đề này phải giải quyết triệt để, tuyệt không thể để phí một giờ một ngày nào. Chỉ sợ phải kéo dài mãi không xong, nhưng tối thiểu phải làm ra được chút cố gắng, thì có thể nhược hóa được loại mâu thuẫn này, dù gì cũng không để đến mức xung đột vũ trang, như vậy muốn tiêu đi nó xem như cũng có hy vọng rồi.

Mấy ngày này những tin tức các phương diện nghe ngóng được từ Liễu Bưu, Dương Lăng biết rằng các bộ tộc khác cũng đang rục rịch, tuy nhiên nó khác hẳn với Đô Chưởng Man có tính công kích và tính chất biệt lập mạnh, dân chúng bình thường của các bộ tộc này sinh sống cũng khá hòa hợp với người Hán, nên cũng nguyện ý lui tới.

Ngược lại là các thổ ty, tù trưởng tầng cao kia, lo lắng rằng cùng với việc qua lại với người Hán dần dần tăng lên, sẽ làm suy yếu quyền sinh sát trong tay của họ đối với các tộc nhân bán nô lệ kia, cho nên dù triều đình có hậu đãi bọn họ đến như thế nào, ban thưởng đãi ngộ như vương hầu, thì vẫn hao tổn tâm cơ muốn sinh chút sự đoan xua đuổi người Hán.

Nhưng do tộc nhân của bọn họ kết giao thường xuyên với người Hán, song phương hữu nghị, bọn họ muốn phản loạn sẽ khuyết thiếu cơ sở quần chúng, muốn sinh sự sẽ khó khăn rất nhiều, cho nên mới hy vọng vào cuộc phản loạn của Đô Chưởng Man, hy vọng đục nước béo cò, lấy việc của Đô Chưởng Man để gây áp lực với triều đình, đòi lấy lợi ích và quyền lợi lớn hơn nữa.

Một con cờ nho nhỏ Đô Chưởng Man này, sức ảnh hưởng phía sau chính là thế cục an định Ba Thục, giữa đó càng không thể không hết sức thận trọng. Nghĩ tới đây, Dương Lăng thầm thở dài: "Châm ngòi chiến tranh thì dễ, dẹp yên nó mới là khó".

Trở về đại doanh, Dương Lăng triệu kiến riêng Yên Cao Tài tới. Hắn chắp hai tay sau lưng, tường tận xem xét bức bản đồ địa hình vùng Tự Châu treo trên tường, cũng không quay đầu lại mà nói:

- Yên đại nhân, hôm nay nghe bát sách bình Man của đại nhân, bản quan có được lợi ích không nhỏ. Xem ra Yên đại nhân làm Huyện Lệnh ở đây, tuy tình huống đặc thù, chẳng có chính tích gì, tuy nhiên không phải là không làm được gì, trong lòng vẫn rất biết tính toán cho triều đình.

Yên Cao Tài biết rằng Dương Lăng cố ý gọi anh ta tới, đương nhiên sẽ không chỉ vì mấy câu khen ngợi này, cho nên chỉ lẳng lặng mà nghe.

Dương Lăng lại nói:

- Theo ta thấy, Đô Chưởng Man ngang ngược kiêu ngạo đã quen, bọn họ không chịu chút thiệt thòi, chắc chắn sẽ không cúi đầu xuống nhận thua. Bảy ngày sau, Đô Chưởng Man tuyệt sẽ không giữ lời thả thế tử ra, chủ động xin hàng. Cuộc phản loạn này, nhất định phải dùng vũ lực mới có thể bình ổn. Điều mà quan viên đất Thục lo lắng nhất chính là sự an nguy của thế tử, nhưng bản quan về sau cẩn thận suy nghĩ, lại cảm thấy... bọn họ chưa chắc sẽ giết chết thế tử.

- Sao? Đại nhân dựa vào gì mà khẳng định như vậy ạ?

- Vẫn là bởi vì người Hán.

Dương Lăng mỉm cười xoay người lại, trở lại bên cạnh bàn ngồi xuống, cụng chén ra hiệu với anh ta một cái rồi tiếp:

- Theo tin tức mà ta được biết, rất lâu trước kia đã có lưu dân người Hán, sơn tặc và tội phạm quân sự trốn vào trong địa bàn của Đô Chưởng Man, sẵn sàng góp sức bọn họ.

Người Đô Chưởng Man tuy rằng dũng mãnh thiện chiến, hơn nữa sống trong núi rừng rậm rạp như cá gặp nước, đi lại tự nhiên. Tuy nhiên bọn họ rốt cuộc vẫn ngu muội lạc hậu, khuyết thiếu tâm cơ. Đánh trận cũng như đi trong đường thẳng, căn bản không hiểu dùng kế trá hàng. Trong năm Thành Hóa, triều đình phái binh chiêu an, gần ba trăm vị tù trưởng của người Đô Chưởng Man bị tên Ngự Sử ngu xuẩn kia giết chết, sau đó người Đô Chưởng Man bài bố phục binh, tiếp theo là giả hàng với Quý Châu Đô Chỉ Huy Sứ, giết chết hơn năm ngàn người, mưu kế mà bọn họ đã sử dụng chính là do người Hán bày ra.

- Bản quan chắc chắn bọn họ sẽ không giết chết thế tử, chính là vì sự tồn tại của những người này. Trong mắt người Đô Chưởng Man, nếu không thể dùng thế tử để uy hiếp chúng ta, rất có khả năng sẽ giết chết ngài ấy để hả giận. Nhưng đám người Hán kia biết rằng một thế tử sống luôn có lợi hơn trăm thế tử đã chết. Bọn chúng sẽ không cam lòng, cho nên nhất định sẽ khuyên can tù trưởng người Man.

Yên Cao Tài nhíu mày:

- Cứ như vậy, chúng ta chẳng phải vẫn đang ném chuột sợ vỡ bình, không thể thi triển hết khả năng sao?

Dương Lăng lắc đầu nói:

- Bằng không, nếu chúng ta không thể đáp ứng điều kiện của bọn họ vì thế tử, cổ vũ dã tâm phản loạn của bọn chúng, thì chỉ có quyết đoán động thủ. Chuyện bảy lần bắt Mạnh Hoạch ngươi biết chứ? Người Man nếu bị đánh phục triệt để rồi thì ngược lại rất khó để lại có ý đồ phản loạn.

Đô Chưởng Man hoành hành trái phép, nhiều lần tạo phản, khiến dân chúng các tộc xung quanh khổ không thể tả, cũng là bởi vì triều đình nhiều lần vây quét nhưng đều thất bại, mới khiến cho bọn chúng không thấy sợ hãi. Chúng ta chính là muốn cho bọn chúng biết rằng, quan quân triều đình không thể chiến thắng, đợi đến khi không còn đường để đi, bọn họ chỉ có thể chọn con đường hàng, như vậy không chừng lại là phương án duy nhất bảo toàn tính mạng cho thế tử.

Yên Cao Tài như thoáng chút suy nghĩ gật gật đầu. Dương Lăng lại nói:

- Ngươi là người quen thuộc bản địa nhất, bản quan sắp dụng binh rồi, ngươi có kế sách gì hay có thể dâng lên không? Nếu như thích đáng, nói không chừng có thể làm nên hiệu quả ngoài mong đợi và giảm bớt số quan binh thương vong.

Yên Cao Tài cười nói:

- Hạ quan mỗi lần bị uất ức, cách để giải cơn uất ức đó chính là trở lại hậu trạch chửi bới thậm tệ một phen, cũng thường suy nghĩ rằng quan binh triều đình có thể áp chế được sự ngạo mạn bất tuân của bọn chúng nên cũng không nghĩ tới biện pháp nào. Đại nhân dụng binh như thần, bách chiến bách thắng, mà hạ quan thì căn bản không hiểu dụng binh, chỉ căn cứ theo tình hình của người Man và dân tình chư huyện mà có một vài ý tưởng, không biết có ích gì cho đại nhân hay không?

Dương Lăng vui vẻ nói:

- Đây chính là chỗ khuyết thiếu của bản quan, bất kể đúng sai cũng không quan trọng, chúng ta chỉ thương nghị riêng với nhau, chứ không phải nghị luận quân tình trong soái trướng, Yên đại nhân cứ việc nói thoái mái.

Yên Cao Tài chắp tay nói:

- Hạ quan tuân mệnh.

Anh ta hít một hơi, theo thói quen nhíu hai mắt lại, trong mắt Dương Lăng bộ dạng đó của anh ta trông rất có vị đạo âm hiểm.

- Đại nhân, trong năm Thành Hóa triều đình từng phái hai mươi vạn đại quân, cũng không thể làm gì được bọn họ, là chiến lực không bằng bọn họ sao? Không phải vậy, chỉ là nơi bọn họ chiếm cứ trời sinh kỳ hiểm, hơn nữa cái hiểm đó hô ứng cho nhau, trợ giúp cho nhau. Đại quân triều đình không thể đi vào từ cửa đó, rõ ràng binh lực chiếm ưu thế, ở trong núi như mê hồn trận kia lại không thể thi triển hết sở trường, khắp nơi chịu quản chế, vì thế mới phải nhận kết cục thất bại. Hạ quan lao tâm khổ tứ, nghĩ ra được mấy kế sách, mời đại nhân tham khảo xem có dùng được hay không.

Dương Lăng tinh thần rung lên, đi trở về bên cạnh bàn nhấc bút lên nói:

- Ngươi nói đi, bản quan sẽ ghi lại.

Yên Cao Tài trầm ngâm nói:

- Thứ nhất, tổ chức cho Hán, Miêu, Đi, Khương di dân. Bọn họ không chỉ quen thuộc địa hình, quen thuộc người Đô Chưởng Man, hơn nữa đều từng chịu qua sự ức hiếp của Đô Chưởng Man. Nếu có sự giúp đỡ của đại quân triều đình, nhất định có thể hăng hái tham gia. Có được sự hỗ trợ của những người dân bản địa này, đại quân có thể giảm bớt việc lạc đường, tránh dính phải nguy hiểm sương độc, giảm bớt được một nửa ưu thế địa lợi mà bọn người Đô Chưởng Man lợi dụng.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Ừ, kế này rất hay, bản quan ghi lại rồi.

Dương Lăng vừa ghi lại trong đầu vừa thầm nói: "Chiêu này, năm đó mình khổ tư xem qua phim ảnh diệt phỉ, mới nghĩ ra kế triệt để lợi dụng quần chúng địa phương. Người này tuy xuất thân là lưỡng bảng tiến sĩ, ở huyện nhỏ này chịu khổ hai năm cũng không phải là hoàn toàn không có chỗ tốt, chí ít không như đám ngôn quan Ngự Sử nói bốc nói phét kia, rất cụ thể".

Yên Cao Tài lại nói:

- Thứ hai, những người già và trẻ nhỏ Đô Chưởng Man còn lưu lại trong thôn trại, rất nhiều đều là cơ sơ ngầm của bọn chúng. Hơn nữa mỗi khi triều đình có cuộc vây quét, còn lén lút vận chuyển lương thảo lên trên núi, khiến bọn chúng không hề thấy sợ hãi. Muốn đánh bại hoàn toàn đám phản nghịch này, để bọn chúng chạy đến đường cùng, thì phải cắt đứt nhánh chi viện này... ưu thế của người Man cũng không còn nữa.

Khi anh ta nói đến chỗ chặt dứt nhánh chi viện thì cố ý kéo dài thanh âm, Dương Lặng nghe ra mùi vị máu tanh trong đó, trong lòng không khỏi khẽ rùng mình. Nếu chỉ nói từ góc độ quân sự, Yên Cao Tài cũng không sai, có đám người này mật báo ngay dưới mắt mình, lén lút vận chuyển lương thảo, Đô Chưởng Man dựa hiểm mà thủ đến chín mười năm quả thực không thành vấn đề.

Dương Lăng hiển nhiên không đến mức quên nói "nhân nghĩa" nơi chiến trường máu tanh ác nghiệt vô tình, học tập Tống Tương Công từng được các nhà lãnh đạo vĩ đại đánh giá là "quân sự gia ngu như heo". Hơn nữa từ một ý nghĩa nào đó mà nói, những người già trẻ nhỏ này chẳng khác nào trinh sát và lính cấp dưỡng của Đô Chưởng Man, tương tự là chiến sĩ. Nhưng dù sao bọn họ cũng là những người già, những đứa trẻ tay không tấc sắt, nhất định phải dùng phương pháp này sao?

Càng quan trọng hơn chính là... mình muốn chinh phục dã tâm của bọn họ, khiến cho bọn họ không còn có thể tai họa một phương, cho bọn họ vào sự quản hạt của pháp chế triều đình, chứ không phải là tàn sát diệt tộc, chiêu độc kế này mà thi triển thì Đô Chưởng Man còn không chịu hàng sao?

Dương Lăng chợt nhớ tới trong trí nhớ đời sau của hắn không có dân tộc Đô Chưởng Man này, mà đặc thù mai táng kiểu treo quan tài của người Đô Chưởng Man vẫn còn là một bí ẩn. Vậy thì trong lịch sử dân tộc này đã bị diệt tuyệt từ rất sớm rồi, trong lịch sử chưa chịu ảnh hưởng bởi sự xuất hiện của mình, có phải bởi vì sự dã man và cuồng vọng của bọn họ, đã đốt tận sự kiên nhẫn của triều đình, cuối cùng đưa đến vận mệnh vong tộc?

Hôm nay ta dẫn quân vây quét Đô Chưởng Man, không thể dùng thủ đoạn khốc liệt như vậy để ép bọn họ đến đường cùng. Dân tộc vốn nên bị mai một trong dòng chảy của lịch sử này, hãy để ta lái nó đi tiếp đi.

Dương Lăng ghi lại điều này, ở bên dưới còn vẽ thêm một gạch ngang, bất động thanh sắc mà nói:

- Tiếp đi.

- Thứ ba, người Man ẩn thân nơi địa thế hiểm yếu, núi cao rừng rậm, đao thương uy lực không lớn, dùng pháo rất khó để có hiệu quả. Tuy nhiên hạ quan dù không đọc binh pháp, cũng biết đạo lý đất trũng dùng nước, trong rừng dùng lửa, một là lửa lớn, một là khói độc, hai cái này nếu chuyên dùng, tất có hiệu quả đáng ngờ.

Anh hùng chí lớn gặp nhau! Trong lòng Dương Lăng thấy vui vẻ hẳn lên. Năm đó hai mươi vạn đại quân bình định thất thắng, hắn chỉ dẫn theo bảy vạn đại quân, dựa vào cái gì mà dám hùng tâm bừng bừng thề phải bắt Đô Chưởng Man? Ngay từ đầu Dương Lăng cùng chưa từng nghĩ qua sẽ dùng chiến pháp thường quy để đấu với nơi hiểm yếu quỷ phủ thần công này. Dùng sức người đấu với nơi hiểm yếu của tạo hóa, quả thật là hạ sách. Dùng khói lửa phá nơi hiểm yếu đó, Đô Chưởng Man mất đi chỗ dựa, thì việc đối phó với đám phản loạn Man quân trang bị cực kỳ lạc hậu này sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Yên Cao Tài thấy Dương Lăng liên tục gật đầu, thần sắc vui sướng, không khỏi cảm thấy được cổ vũ, nói tiếp:

- Thứ tư, quân ta người đông, đường núi gập ghềnh, căn bản không dùng được, không bằng phân lộ xuất phát, tiêu diệt từng bộ phận, trại nho dễ công ta sẽ giành trước, còn mình trại lớn bị cô lập thì cũng dễ phá thôi.

Dương Lăng để bút xuống cười nói:

- Tuyệt vời! Đúng như ý của bản quan. Nhìn từ các cửa ải hiểm trở mà Đô Chưởng Man dựa vào để phòng thủ, ta cho rằng muốn đánh bại hoàn toàn bọn chúng, tất phải phá Cửu Ti thành; mà muốn phá Cửu Ti thành, thì tất phải phá Lăng Tiêu thành; muốn phá Lăng Tiêu thành, thì phải cắt được đôi cánh này. Trước tiên dọn sạch vòng vây ngoài, và phá các nơi hiểm yếu như Bặc Vương sơn, Đô Đô trại. Từng bước cẩn thận, gấp rút tập trung và bức ép quyết chiến. Thực là không mưu mà hợp với Yên đại nhân.

Yên Cao Tài nghe xong ngẩng đầu tìm kiếm trên địa đồ, cẩn thận quan sát, một lúc lâu sau mới thay đổi sắc mặt nói:

- Đại nhân cao kiến, cách dụng binh trước kia, quan binh thường hai mặt thụ địch, khắp nơi bị quản chế, chính là nguyên nhân đánh thẳng chỗ yếu hại mà không dọn dẹp vòng ngoài. Chiêu này hay!

Dương Lăng lắc đầu thở dài:

- Cũng không dám nói là hay thế nào, chỉ là bản quan đã chọn đọc nhiều hồ sơ diệt phỉ trước kia, cẩn thận phân tích nguyên nhân thất bại của họ, mới nghĩ ra chiêu này. Nói ra, sự thất bại của bọn họ đã bỏ ra cái giá lớn như vậy, bản quan mới biết làm như thế nào để tránh thất bại tương lự.

Hắn nhắm mắt lại, hít một hơi thật dài, vặn cái lưng đang mỏi rời của mình nói:

- Có bốn kế này, rồi kết hợp với chủ ý của bản quan, cơ hội thắng lại tăng thêm mấy phần. Yên đại nhân, kế sách này của ngươi rất hay, theo ta nghĩ, chí ít có thể giảm bớt ba phần tổn thất binh mã, công lao lớn đấy.

Yên Cao Tài ha ha mà nói:

- Đại nhân, hạ quan còn chưa nói xong...

- Sao? Vẫn còn à, mau nói, mau nói!

Dương Lăng rất bất ngờ, vội vàng thúc giục.

Yên Cao Tài đi đến trước bàn của mình, cầm chén trà lên hớp một ngụm, vẻ mặt có chút quái dị mà nói:

- Hạ quan mạo muội, hạ quan thấy đại nhân đã suy xét hết mọi thứ rồi, chỉ quên mất một điểm, nhưng điểm này lại rất quan trọng.

Hắn lộ vẻ kích động nói:

- Chuyện gì vậy?

Yên Cao Tài nói:

- Quân tâm! Sĩ khí!

Dương Lăng không khỏi thấy tức cười.

Yên Cao Tài nói:

- Vệ sở binh không thích tham gia quân ngũ cho nên bầu không khí ghét chiến tranh rất đậm, hơn nữa vệ sở binh rèn luyện ít, chiến lực còn kém hơn so với người khỏe mạnh một số nơi. Bây giờ lại phải đến nơi vùng núi hiểm trở, bọn họ lại sớm đã nghe qua đám phản loạn Man Di này từng đánh bại hai mươi vạn đại quân của triều đình, thử hỏi binh lính dám chiến và muốn chiến còn lại bao nhiêu?

Dương Lăng như hít phải hơi khí lạnh. Điểm này xác thực vô cũng quan trọng. Khi đánh trận điều kiện gì cũng quan trọng, nhưng quan trọng nhất vẫn chính là con người. Những quân nhân này nếu không mang lòng ham chiến, cho dù có mời Gia Cát Lượng đến định ra cả trăm diệu kế thì cũng có tác dụng gì đây?

Mà Dương Lăng bởi vì đến từ thời hiện đại, đã có chút quá quen thuộc đối với việc nghe theo chỉ huy trong quân đội, thường xuyên lơ đãng quên mất điều mà người làm tướng luôn coi trọng nhất này. Qua sự nhắc nhở của Yên Cao Tài, hắn mới giật mình: những binh lính này không phải do hắn huấn luyện ra, cũng không phải là những thân tín mà Lý Sâm có thể sai khiến. Những binh lính hỗn tạp được điều đến từ các phủ huyện này, khi lâm chiến thực sự, rốt cuộc có thể phát huy được chiến lực lớn cỡ nào?

Dương Lăng nghĩ đến đây, nghiêm nghị đứng lên, vái chào thật sâu với Yên Cao Tài, nói:

- Bản quan vừa đến Tây Nam, thật đúng là đã quên mất nhánh quân đội này không phải là đội quân thiện chiến hùng mạnh của phương Bắc, cũng không phải là những tinh binh Giang Nam do ta tạo ra, đến nỗi như một lẽ đương nhiên mà cho rằng bọn họ hoàn toàn có thể quán triệt được mệnh lệnh của bản quan, suýt chút nữa đâm đầu vào sai lầm thảm hại. Dương Lăng đã tạ sự chỉ điểm của Yên đại nhân.

Đường đường là một Khâm Sai, Uy Võ hầu gia lại có lễ ngộ như vậy với anh ta, Yên Cao Tài không khỏi sinh cảm giác tri kỷ, không ngừng đáp lễ nói:

- Không dám không dám, hưởng bổng lộc triều đình, thì cùng nên phân ưu vì triều đình, đại nhân lễ ngộ ân trọng như vậy, thực khiến hạ quan thấy sợ đấy ạ.

Dương Lăng khẽ mỉm cười nói:

- Sợ cái gì, Yên đại nhân có chân tài thực học, chí khí quanh quẩn nơi đây, thực là viên ngọc quý bị che lấp, về chuyện bình định, bản quan còn có trọng trách muốn nhờ cậy.

Xong rồi, quý nhân không đơn giản. Dương Lăng vừa nói ra câu này, Yên Cao Tài liền biết mình lưng tựa Thái Sơn, mặt kề biển cả, tiền đồ là vô lượng vô lượng.

Anh ta vui sướng cảm ơn Dương Lăng, nói:

- Đại chiến sắp đến, muốn chỉnh đốn quân tâm, huấn luyện quân ngũ, căn bản đã không kịp nữa rồi. Bây giờ muốn nhanh chóng ngưng tụ quân tâm sĩ khí và dũng khí lâm chiến, vào thời khắc phi thường này, chỉ có thể dùng phương pháp phi thường mà thôi.

Anh ta liếm môi, từng chữ nói:

- Một là phải nghiêm trị những thành phần đào ngũ, giết không tha!

Dương Lăng gật đầu nói:

- Được!

Yên Cao Tài lại nói:

- Thứ hai là... những tài vật mà binh lính thu được khi đánh trận với Đô Chưởng Man, của ai thuộc về người đó, không cần nộp lên trên.

- Sao...?

Dương Lăng liếc mắt nhìn Yên Cao Tài một cái:

- Người đọc sách hình như đều biết đạo lý người chết vì tiền, chim chết vì miếng ăn, còn nhớ danh tướng đời sau Chu Bồi Công hình như cũng dùng chiêu này. Chỉ trong vài ngày ngắn ngủi, đã biến những người hầu biếng nhác thành đội cảm tử bách chiến bách thắng.

Vào thời khắc phi thường, cần dùng phương pháp phi thường, đến thời đại Napoléon, trình độ văn hóa binh sĩ đã cao hơn nhiều, quân Anh quân Pháp chẳng phải cũng đánh trận theo kiểu vừa đánh vừa cướp, thì có thể trông mong binh lính bây giờ có được giác ngộ gì chứ?

Dương Lăng thở dài, chậm rãi gật gật đầu, nói:

- Cái này... cũng được.

- Còn đây là kế sách cuối cùng... nhưng lại không phải giành cho trận chiến này, mà là cho trận chiến im lặng sau trận chiến này

Yên Cao Tài đã tự cho mình là phụ tá của Dương Lăng, cho nên có gì nói đó không giấu giếm.

Làm phụ tá là phải thi triển hết sở trường, đưa tất cả những biện pháp mà mình có thể nghĩ ra, về phần chủ tướng có cần hay không, thì nó lại không nằm trong phạm vi suy xét của bạn nữa rồi. Nếu người thân là phụ tá mà khi bày mưu tính kế còn ngó trước nhìn sau, đi cân nhắc suy xét xem kế sách này của mình có để lại ấn tượng gì trong lòng thượng quan hay không, kế sách kia của mình có khiến cho thượng quan cảm thấy mình âm hiểm giảo quyệt hay không, thì anh ta sẽ rất khó thi triển hết sở trường của mình. Người có thể làm chủ tướng tuyệt đối cũng không phải là kẻ ngu dốt, bạn không thể suy nghĩ điều mà họ không thể suy nghĩ, trăn trở điều mà họ không thể trăn trở, thì làm sao họ có thể trọng dụng bạn đây?

Yên Cao Tài mỉm cười nói:

- Hạ quan nghe nói, khi đại nhân tuần tra Tây Bắc, hoàng thượng đã ban đặc quyền cho đại nhân, có thể điều động quan binh trong phạm vi tam vệ bất cứ lúc nào, còn có quyền điều động Lang Binh?

Trong lòng Dương Lăng nhảy dựng lên: "Lẽ nào hơn hai ngàn Lang Binh của Tống Tiểu Ái ẩn nấp trong quân của mình, đã bị anh ta nhìn ra rồi sao? Buồn cười, tài cao cũng không thể cao đến cảnh giới này được chứ? Thế này chẳng phải là Gia Cát Võ Hầu tái thế rồi sao?".

Dương Lăng ngạc nhiên đáp:

- Đúng vậy, sao hả?

- Vậy thì xong rồi.

Yên Cao Tài vui sướng nói:

- Mời đại nhân lập tức hạ lệnh, điều động Lang Binh quanh sáu tộc Khương, Di, Miên, Tàng, Hồi, Thổ Gia, nhưng cũng không cần quá nhiều, mỗi tộc xuất ra khoảng hai ba trăm người là được rồi.

Dương Lăng chần chừ nói:

- Trong thời gian ngắn như vậy chỉ sợ bọn họ không điều động được, nhưng ít... mà phái ra một ít người như thế này thì làm được cái gì, huống hồ thổ ty của những bộ tộc này một số thì trung thành với triều đình, một số thì đang chân trong chân ngoài xem tình hình như thế nào, mong chờ có thể từ giữa mưu lợi bất chính, để cho họ phái người, chỉ sợ không thể phái ra được dũng sĩ trong tộc.

Yên Cao Tài cười nói:

- Có phải dũng sĩ hay không không quan trọng, cho dù chỉ là một đám phụ nữ, trẻ con cũng không vấn đề gì, chỉ cần họ phái người trợ giúp bình định, vậy là đủ rồi.

- Ồ!

Dương Lăng rất nhanh đã hiểu ra, trong lòng không khỏi trở nên thông thoáng hơn:

- Bao gồm cả sáu bộ tộc chủ yếu của đất Thục, trong trận chiến này điều quan trọng không phải là họ mang lại được tác dụng lớn như thế nào, cho dù chỉ xuất binh mang tính hình tượng, thì đối với chính bản thân họ, đối với hơn mười bộ tộc nhỏ khác, đối với Đô Chưởng Man, đều tự có ý nghĩa khác nhau.

Kế này không chỉ suy nghĩ cho trận chiến Tự Châu này, mà còn có ý nghĩa lớn đối với sự ổn định và hòa bình lâu dài trên toàn đất Thục, có tác dụng kìm chế rất lớn đối với các thổ ty lòng mang dã tâm độc lập. Yên Cao Tài này, có phần giống với mưu sĩ lưu manh Giả Văn Hòa trong Tam Quốc, hay cho kế một hòn đá ném ba con chim!

Dương Lăng liên tục nói:

- Ý kiến hay, bản quan lập tức truyền xuống Kim Phê Lệnh Tiễn, để các bộ nội trong bảy ngày phái Lang Binh trợ chiến. Các mưu kế của Yên đại nhân rất rất tốt, duy chỉ có điều thứ hai còn phải chờ thương thảo.

Dương Lăng nói:

- Chặt đứt tai mắt và hậu viện của địch, cũng không thể sử dụng thủ đoạn tàn bạo như vậy. Hơn nữa làm như vậy, nếu khiến cho phản binh trên núi càng thêm thù hận triều đình, cũng bất lợi cho cục diện sau khi chiêu hàng bình định. Bản quan lại có một kế này, vừa có thể đạt được mục đích mà ngươi nói, vừa có thể tránh được hai hậu hoạn này, có thể an trí những dân chạy nạn lang bạt khắp nơi không nhà để về, đồng thời đạt được hiệu quả quy hóa tạp cư. Ngươi thấy được không?

Yên Cao Tài kinh ngạc mà nói:

- Đại nhân mời nói, hạ quan xin lắng nghe.

Dương Lăng nói:

- Thôn trại người Man, già trẻ, tài sản cá nhân, tất cả triều đình không được xâm phạm. Đồng thời, trong thời gian mấy ngày này, bản quan lệnh quan binh hiệp trợ, di tán dân chạy nạn vào ở trong các thôn trại của Đô Chưởng Man các nơi trên, giúp bọn họ xây nhà khai hoang. Ở đây đất hoang rất nhiều, mỗi nhà mở rộng một hai mẫu đất cũng dễ dàng. Như vậy có thể khiến bọn họ an tâm sinh sống.

Đồng thời quan phủ ra mặt, thiết lập Bảo Giáp, Lý Chính và Hương Binh tại các thôn các trại, duy trì trị an địa phương. Thứ nhất là tránh cho dân chúng tạp cư gây hấn trả thù, thứ hai là có thể sát sao theo dõi, ngăn kẻ xấu lên núi truyền tin vận lương.

Đây chỉ là kế ngộ biến tùng quyền trước mắt, sau khi bình phản, bản quan còn muốn nhập gia tùy tục, bổ nhiệm trưởng lão trong số lão nhân của Đô Chưởng Man và các tộc cư khác, giáo hóa trấn an địa phương, đồng thời triều đình thiết lập nha môn lưu động, khi các thôn trại tạp cư có phát sinh gây hấn, giết người cướp của, sẽ do nha môn phái người đến thôn thẩm tra xử lý công khai, mời Bảo Giáp, Lý Chính và các trưởng lão trong trại dự thính, cần phải làm một cách công chính liêm minh, không thiên vị. Cứ như vậy ta tin chỉ cần nửa đến một năm, trị an địa phương sẽ có chuyển biến tốt. Đương nhiên đây chỉ là những ý tưởng ban đầu, chưa thực sự hoàn thiện. Ha ha, bây giờ cũng chỉ là tiết lộ cho ngươi nghe thôi.

Ánh mắt Yên Cao Tài hiện lên vẻ kỳ dị, luôn miệng nói:

- Cách này xác thực là cao minh hơn hạ quan rất nhiều, hạ quan vô cùng khâm phục! Đại nhân thực sự là... tài cao.

Dương Lăng ha ha cười không nói. Loại chiêu thuật chế độ Bảo Giáp (chế độ biên chế hộ tịch ngày xưa để quản lý nhân dân theo nhiều tầng, một số nhà hợp thành một giáp, một số giáp hợp thành một bảo, mỗi giáp có Giáp trưởng, bảo có Bảo trưởng), huy động trong thôn, thẩm vấn công khai, ngăn chặn phạm pháp này đời sau sử dụng rất nhiều, hiệu quả... thực không tệ.

Hơn nữa đối xử công bằng với người già, phụ nữ và trẻ nhỏ Đô Chưởng Man sẽ giảm bớt việc hình thành thù địch song phương, thậm chí có thể cảm hóa một bộ phận quân phản loạn cướp bóc lẻn vào trong núi. Đối với triều đình vừa dụng binh vừa chiêu an rất có lợi, chỉ tiếc một điều là cơ sở của triều đình ở đây quá thấp kém, sự cảm ngộ của dân chúng các tộc Đô Chưởng Man quá thấp, bằng không nếu như có thể phát động một đội những cụ ông cụ bà Đô Chưởng Man vào núi kêu gọi đầu hàng, chơi chiến thuật đánh vào tâm lý, thì đối với việc phân hóa phản phỉ (phản loạn và thổ phỉ), triệt tiêu ý chí chiến đấu phản kháng của bọn chúng, nhất định sẽ có hiệu quả.

Dương Lăng nói:

- Những thiết tưởng ban đầu này của bản quan, nếu thật muốn thi hành, thì chỉ sợ các phương thức quản hạt huyện châu, châu phủ trước đây không thích hợp với nơi này. Mấy ngày này bản quan không chỉ nghĩ về chuyện làm sao để xử lý mấy bè phái này, mà còn nghĩ rất nhiều đến những chuyện về sau.

Mượn "bát sách bình Man" của ngươi, sau khi bản quan chuẩn bị bình định, lập tức xử lý công việc dời dân tạp cư, quản lý đóng quân. Những việc này nếu thuộc quản lý của các nha môn khác nhau, thì các huyện theo thứ tự như quy định lên báo cáo, rồi đợi thượng ti hồi đáp, phải lỡ rất nhiều chuyện.

Dựa theo lệ cũ là tại các địa khu đặc thù, khi xuất hiện các sự kiện đặc thù triều đình sẽ phái các quan viên lâm thời như Tổng Đốc, Tuần Phủ tiết chế quân chính địa phương, sắp xếp trù tính chung, bản quan muốn dâng thư lên hoàng thượng, thiết lập một Tuần Phủ ở chư huyện gần Tự Châu, thống nhất chỉ huy các yếu vụ về quân chính luật học phủ ở đây, mà nhân tuyển này... Yên đại nhân việc nhân đức không nhường ai, mong rằng đừng từ chối.

Dương Lăng mưu tính sâu xa và nhanh gợn, dứt khoát, quyết đoán dĩ nhiên khiến Yên Cao Tài hoàn toàn bái phục. Phần tán thưởng và trọng dụng này càng khiến anh ta bội phần cảm kích. Yên Cao Tài đứng dậy, gương mặt đỏ lên nhìn Dương Lăng, trong mắt óng ánh nhưng rất lâu vẫn nói không nên lời.

Địa phương Tự Châu gấp rút hành động, quan binh triều đình giúp đỡ dân chúng dựng nhà khai hoang, đây thực sự là chuyện trước nay chưa từng có, những người dân không có nhà để về ngạc nhiên không hiểu. Những vệ sở binh này không hổ là các nông dân binh đồn điền hơn trăm năm nay, khai hoang còn giỏi hơn cả đánh trận, dân chúng nhìn thấy từng ngôi nhà mới hiện lên, đất đai trong tay, quan cảm đối với triều đình quả nhiên đã dần dần thay đổi.

Cùng lúc với di dân, nha môn còn lựa chọn ra Bảo Giáp Lý Chính ngay trong thôn xóm, và lựa chọn ra các thanh tráng niên từ trong dân chúng theo nề nếp cũ để thành lập Hương đoàn, nhiệm vụ thiết yếu chính là ngăn di dân trả thù người già và con trẻ Đô Chưởng Man còn lưu lại trong thôn. Yên Cao Tài quản lý dân chính quả thực rất giỏi, cộng thêm sự ngăn chặn mạnh mẽ của quân đội, không có người dân phương nào dám kháng cự gây sự. Trải qua thời gian mấy ngày, cũng đã nhìn thấy được quy mô.

Sau bảy ngày, phía A Đại vẫn không có tin tức gì đưa tới.

Khâm Sai Dương Lăng nổi trống tụ tập tướng lĩnh, tự mình làm tiết soái, thống nhất quản lý chư quân, do Lý Sâm làm phó soái, mười người trong nhóm tham tướng Lý Trạch làm thiên tướng, Bố Chính Sứ Tham Chính Phong đại nhân, Ngự Sử Tô đại nhân, Tri Châu Phùng đại nhân phân chia nhận nhiệm vụ, quản lý hậu phương, bảy vạn đại quân tập hợp tại ngoài thành Tự Châu.

Ngày hôm đó, ánh mặt trời rực rỡ, không chút dấu hiệu như đại chiến sắp đến. Dương Lăng khoác mãng bào thắt đai ngọc, tả hữu cầm Khâm Sai tiết ấn và Thượng Phương bao kiếm, dưới sự tháp tùng của phó soái Lý Sâm và Tham Chính Phong đại nhân, đi lên đài điểm tướng dựng tạm thời cao hai trượng, chuẩn bị tuyên thệ trước khi xuất quân xuất binh!

Dương Lăng bước lên đài điểm tướng. Hai hàng thân binh mang đao xếp thành một hàng ở trước đài, đối mặt với tướng sĩ các bộ, đao sáng vác trên vai, mùi đao chĩa lên, dường như lúc nào cũng có thể bổ tới, phối hợp với hình thể dũng mãnh, vẻ mặt nghiêm nghị khiến người ta nhìn thấy là sợ.

Lý Sâm đứng trước đài tiến hành động viên trước chiến đấu. Dù y không đọc sách nhiều lắm, nhưng bài tuyên thệ này là do phụ tá viết trước đó, giọng văn sắc sảo, từ ngữ khảng khái, quan viên văn võ nghe thấy đều sục sôi nhiệt huyết.

Đại khái nội dung không nằm ngoài việc trước tiên là khen ngợi quân Tứ Xuyên thiện chiến, những người có mặt đều là tinh anh trong quân, tiếp theo là ưu thế về quân sự và sự tin tưởng tất thắng. Cuối cùng huy động mọi người hô to khẩu hiệu "không đánh thắng giặc, không dám thân bại trở về", buổi diễn thuyết đến đây kết thúc mỹ mãn.

Trên đài, gió thổi áo choàng của Dương Lăng bay phần phật. Lý Sâm vừa dứt lời, hắn cởi áo choàng ra đưa cho giáo úy bên cạnh, sau đó nhảy tới trước một bước. Lý Sâm lùi về sau nhường chỗ, ánh mắt toàn thể quan binh đều đồng loạt hướng về phía Dương Lăng.

Dương Lăng lấy hơi, cất cao giọng:

  • Quốc có quốc pháp, quân có quân quy!

Giọng của hắn tuy lớn, nhưng chỉ nghe rõ trong phạm vi hơn mười trượng, nhưng các bộ trong quân đều có lính truyền lệnh, có thể truyền đạt lời của hắn. Dương Lăng ngập ngừng một chút mới tiếp lời:

  • Lần xuất chinh này, bản soái truyền lệnh ba quân bảy lệnh cấm sau đây, không ai được phạm, kẻ nào vi phạm chém không tha.

  • Một, ai đầu hàng kẻ thù, trảm!

  • Hai, ai chạy trốn theo địch, trảm!

  • Ba, ai nhận hối lộ của địch, trảm!

  • Bốn, ai tiết lộ quân cơ, trảm!

  • Năm, ai lâm trận bỏ chạy, trảm!

  • Sáu, ai không nghe hiệu lệnh, trảm!

  • Bảy, ai sợ địch chạy trốn, trảm!

Bảy điều lệnh tất sát, mỗi khi nói một câu Dương Lăng đều tạm dừng, để lính truyền lệnh lần lượt truyền xuống. Quân ngũ vốn đang hô khẩu hiệu như hồ nước lặng cũng dần dần gợn sóng.

Người đang nói là ai chứ? Chính là thiên sát tinh Dương chém đầu, ra lệnh một tiếng chém hơn một ngàn đầu người, trong đó còn có quan lớn triều đình, hắn nói giết người thì đó là tuyệt đối nghiêm túc. Hai trăm thanh đao sáng loáng phía trước càng tăng thêm sát khí cho lời nói của Dương Lăng, bất kể là tướng tá quân binh nghe xong bảy điều lệnh tất sát này, trong lòng đều nghiêm nghị.

Cuối cùng, Dương Lăng cao giọng:

  • Chư quân tướng sĩ anh dũng giết địch, ai không vi phạm bảy điều lệnh cấm này thì không cần câu nệ. Bản quan cầu chúc toàn thể tướng sĩ thắng từ trận đầu, mã đáo thành công! Lúc chiến thắng trở về, bản quan đãi tiệc bày rượu, tẩy trần mừng công cho toàn thể tướng sĩ!

Ai không vi phạm bảy điều lệnh cấm thì không cần câu nệ!

Những binh lính dày dạn này sao không hiểu lời của Dương Lăng cho được. Mọi người đều bị dọa đến không dám thở mạnh, ai nấy đều xem quân kỷ như hổ, lúc này trong lòng lĩnh ngộ, nhất thời ai ai cùng biến thành lão hổ.

Dương Lăng quét mắt một lượt, nghiêm nghị hô:

  • Xuất phát!

Từng đội binh lính bắt đầu xuất phát dưới sự chỉ dẫn của cờ dẫn đầu, rời khỏi võ đài đi đến chiến trường. Tham tướng Lý Trạch dẫn quân tiến công về Nhung huyện, tham tướng Lâm Anh Viễn dẫn quân tiến công từ Mang Khẩu. Du Kích tướng quân Thôi Quý dẫn quân tiến công từ Lý Tử Quan, Chỉ Huy Sứ Tiêu Hoành dẫn quân tiến công từ phố Độ Thuyền, Thủ bị Cận Quốc Anh tiến công từ Kim Nga Trì...

Chiến hỏa đồng thời bùng phái ở các huyện Tự Châu, đội quân của Lý Sâm ở giữa phối hợp tác chiến, từng bước tiến về phía trước theo các đội tiến công. Đối mặt với ưu thế binh lực, trang bị và thế công hùng mạnh của quân Minh, người Đô Chưởng Man ở trên cao ỷ vào thế hiểm, dùng nó thô sơ ngoan cố chống trả.

Nhưng sức mạnh hai bên lại kém nhau quá xa, quân Minh lại có thái độ khác thường, ý chí chiến đấu cực kỳ cao, dũng mãnh vô cùng, hơn nữa còn hứng thú với công thành khiêu chiến. Người Đô Chưởng Man rốt cuộc cũng nếm được lợi hại của quan binh triều đình, bị trùng vây chém giết, chúng chống cự vô ích, đành phải từ bỏ các sơn trại trốn vào rừng sâu núi thẳm hiểm yếu hơn, khó tiến công hơn.

Quân Minh đuổi cùng giết tận, theo sát không tha tựa như chim ưng thấy thỏ. Khác với trước kia, quân Minh vốn không rành đường đi lối rẽ trong núi, mặc dù đại quân uốn lượn như rắn, trước sau hô ứng, song họ vẫn bị người Đô Chưởng Man dẫn vào lối cụt đường chết, loay hoay mãi trong núi cả nửa buổi vẫn chưa thoát ra được. Thừa lúc này, người Đô Chưởng Man đã sớm mất dạng, chơi trò trốn tìm với họ trong núi. Thậm chí chúng còn xuất quỷ nhập thần vòng ra sau đường lui của bọn họ, hoặc là xuất hiện ở sơn trại mà bọn họ đã công phá trước đó.

Nhưng còn lần này, quân Minh rất khó bị chúng dẫn tới lối cụt đường chết, cơ hội trúng phục kích cũng giảm đi nhiều. Đường dây tin tức mà người Đô Chưởng Man có được đã sớm bị phá hỏng, chúng không biết triều đình tổ chức cho dân địa phương cùng nhau vây quét. Người Man thờ phụng quỷ thần liền nghi thần nghi quỷ cho rằng chủ soái Dương Lăng của quân Minh có thần thông gì đó.

Trong đám sơn tặc đầu nhập bọn chúng có người từng nghe nói những truyền thuyết thần kỳ về Dương Lăng như: Lúc trước hắn hô mưa gọi gió tiêu diệt giặc Oa ở Tiền Đường, gọi gió đông trừ gian hoạn ở Long sơn, sau khi xác minh thì người Man càng kính sợ. Đánh vào tâm lý là đáng sợ nhất, do đó tình hình phản kháng ở nhiều nơi liền giảm đi không ít, người ở những nơi thường bị công kích liền bỏ trại trốn vào núi sâu.

Trong vòng năm ngày ngắn ngủi, tin chiến thắng liên tiếp báo về từ mọi nơi. Quân Minh các huyện không ngừng giành chiến thắng, đánh hạ các sơn trại Long Bối, Báo Vĩ, Đồng Cổ Trì và hơn một trăm sơn trại khác, trảm đầu hơn hai ngàn bốn trăm người, bắt giữ hơn bốn trăm người, chiếm giữ hơn bảy trăm kho gạo, ba mươi trống đồng cùng một số lượng lớn trâu ngựa heo dê.

Trước kia quân Minh công chiếm sơn trại, do lúc tiến công lên núi tử thương nghiêm trọng, vì muốn hả giận nên đốt trụi sơn trại, những nhà tranh hàng rào đó đều làm từ gỗ, dựng lên dễ dàng, đốt lại càng dễ. Nhưng lúc này quân Minh lại có thái độ khác thường, không hề phóng hỏa cho bõ tức, ngược lại còn xây dựng công sự ở chỗ hiểm yếu của sơn trại đã chiếm lĩnh, dựng lên tường đá, thận trọng bức sát gần hơn.

Hơn nữa liền là nơi dựa vào thế hiểm phản kháng bị đánh chiếm, họ liền để lại binh mã, an bài quan lại, đồng thời di dời người dân các tộc tiến hành đồn điền, phân phát toàn bộ đất vô chủ của những ai vào núi tạo phản cho mọi người.

Người ta thường nói chiến trường không phụ tử, đánh trận không nam nữ, nếu đến lúc đánh nhau mà còn mềm lòng thì chắc chắn là tự chui đầu vào rọ. Đối với người tổ chức phá hoại, di dân, chia đất, xây dựng thôn xóm mới lúc này, sớm đã bị Yên Cao Tài kể lại tường tận cho các quan lại mới nhậm chức kiên quyết trấn áp, không chút nương tay, độc thủ phật tâm, dùng sự hỗn loạn nhất thời đổi lấy ổn định lâu dài. Quả nhiên việc này đã đả kích nặng nề vào những kẻ ngầm phá hoại ôm lòng ảo tưởng, muốn giở lại trò cũ, tỏ vẻ yếu đuối, dùng thủ đoạn cứng rắn nhanh chóng thành lập nên trật tự mới.

Những lưu dân không nhà và tá điền không đất, những nông dân bần cùng vốn làm công lâu năm cho địa chủ cường hào vừa nhìn thấy quan phủ dán thông báo chiêu nạp, họ liền kích động chạy tới. Mỗi nhà được mười mấy mẫu ruộng tốt, trong một đêm biến thành giai cấp có tiền, ai nấy đều vui sướng, chẳng những lưu lại ổn định tại chỗ, còn chủ động thành lập dân phòng, trợ giúp quan quân lùng bắt nghịch tặc, ổn định địa phương.

Đồng thời, Dương Lăng không đem Lang Quân mà sáu tộc phái tới đưa ra chiến trường, chỉ để họ giúp quan binh tuần tra, xử trí những kẻ phản kháng còn lại, mau chóng ổn định cục diện ở các sơn trại đã đóng chiếm. Cứ thận trọng, nắm chắc như vậy mà bức ép không gian tác chiến của người Man càng ngày càng nhỏ, bọn chúng chỉ có thể từng bước thối lui, bắt đầu tập trung ở các chốt quan trọng.

Nhưng cùng lúc đó, đối với người Man phục tùng thân cận, các quan địa phương mới nhậm chức lại cực kỳ hậu đãi, tài sản cá nhân và đất đai của họ hoàn toàn được bảo hộ, không cho bất cứ ai khi dễ chiếm cứ, cũng không ngăn cản quan phủ nào muốn chạy trốn, ngược lại có ý mượn miệng của những người này truyền chính sách quan phủ ưu đãi những ai chủ động đầu hàng vào sâu trong núi.

Dần dần, quả nhiên có một số người sợ chết, hoặc có người nhớ nhà nơm nớp lo sợ, thử ra khỏi núi đầu hàng quan phủ. Quan lại của các thôn xóm mới mở này quả nhiên đối đãi rộng lượng, làm theo lời hứa. Cứ như vậy, tuy người đến đầu hàng không nhiều, song dòng người kéo đến không dứt, mỗi ngày đều có người chạy ra khỏi trại.

Yên Cao Tài cũng để ý trong số những người này có thể có thám tử mà người Man cố ý thả ra. Dưới sự quản chế của quan lại và người dân địa phương, bọn họ không có được bất kỳ tình báo chân thực hữu dụng từ phía quân đội. Ngược lại chỉ nghe thấy những lời ảo diệu vô cùng, thậm chí còn có tin tức mâu thuẫn lẫn nhau, nếu trong đó thực sự có thám tử, e là khi tin tức truyền vào núi chỉ làm người Man càng thấy khó hiểu.

Triều đình chiêu an hậu đãi người đầu hàng, nghiêm khắc đả kích kẻ phản loạn, khiến sức chiến của người Man yếu đi nhiều. Trong hơn nửa tháng, những nơi người Man khống chế chỉ còn lại một số sơn trại hiểm yếu nhất, những nơi khác đều rơi vào tay đại quân triều đình.

Trong đại doanh Tự Châu, trên các ngọn núi khe sâu của sa bàn cắm đầy những lá cờ nhỏ màu đỏ. Còn số cờ màu lục tuy ít nhất nhưng lại cắm ở những chỗ cao nhất.

Dương Lăng chỉ vào mấy lá cờ màu lục:

  • Những sơn trại còn lại, một phần trăm sơn trại không kịp vây công, nhưng cũng là các sơn trại lớn nhất, khó công nhất. Núi rừng rậm rạp, nguy hiểm hiểm yếu khó đi, có thể nói là đứng đầu Hoa Hạ. Tiêu diệt phỉ tặc, bình định Tự Châu có thể thành công hay không thì phải xem những địa phương này có bị đánh chiếm hay không, nếu không cuối cùng sẽ thất bại trong gang tấc...

Chu Nhượng Cận lo lắng nói:

  • Khâm Sai đại nhân, người Man liên tục thất bại, hẳn là áp giải vương huynh ra làm con tin. Nhưng quân ta liên tiếp tấn công, người Man chỉ biết lui giữ chống cự, đúng là không bao giờ nhắc tới việc vương huynh bị bắt giữ, có khi nào vương huynh đã...

Dương Lăng trầm ngâm nói:

  • Nhị vương tử không cần quá lo lắng, người Man bị bắt chẳng phải đều khai nhận thế tử bị nhốt ở Cửu Ti thành sao? Chưa bao giờ truyền ra tin thế tử bị hại, theo bản quan thấy, hẳn là A Đại cho rằng nơi đây thế hiểm, quân ta nhất định tiến công không được, do đó mới xem thường mà không dùng thế tử làm con tin ngăn chặn thế công của chúng ta, mà muốn đánh bại quân ta trên chiến trường, khiến quân ta không dám đánh nữa.

Chu Nhượng Cận há hốc miệng, cuối cùng thở dài, y biết Dương Lăng lựa lời an ủi. Quân Minh thắng như che tre, người Đô Chưởng Man chỉ biết liều chết ngoan cố chống cự, lại không đề cập tới chuyện thế tử. Cho dù người Man đầu óc ngu si, tâm cơ không nhiều, nhưng nếu bọn họ có thể dùng thế tử đề xuất các điều kiện với Thục vương trước, hiện tại sao không nghĩ đến việc đem thế tử ra trước trận ngăn cản quân Minh cho được? Xem ra bọn họ đã đánh giá sai lý trí của người Man, thế tử Chu Nhượng Hủ tám chín phần đã bị người Man hại rồi, chẳng qua mọi người đều ngầm hiểu chuyện này trong lòng, không ai muốn phá rách lớp cửa sổ giấy này mà thôi.

Phong Tham Chính sợ nhị vương tử đau lòng, vội vàng chuyển đề lài:

  • Dương đại nhân, trước mắt các sơn trại còn lại đều dễ thủ khó công, nằm ngay Đồng Cổ Lĩnh trước mặt quân ta, bốn vách dựng đứng, khoảng cách đến trước cửa núi chừng mấy trăm thước. Chỉ có điều trong thung lũng có một đường nhỏ quanh co, người Man chỉ cần cho mấy người chất đá ở trên cũng đủ để ngăn chặn ngàn vạn binh mã, vô cùng khó công.

Dương Lăng mỉm cười nói:

  • Đồng Cổ Lĩnh tuy rằng hiểm yếu, nhưng lúc trước đại quân triều đình tiến công lên núi nhiều lần thất bại, khó tiến nửa bước, nhưng thật ra là do lầm lẫn, không thể tự thức tỉnh từ trong mê trận, bằng không tại sao cả mấy chục vạn đại quân khó tiến nửa bước?

Chu Nhượng Cận cũng bị khơi dậy lòng hiếu kỳ, bèn thắc mắc:

  • Cái gì? Sau khi chỉnh sửa chỗ hiểm yếu này theo miêu tả của tù binh, cảnh trí mô phỏng trên sa bàn đã rất chân thực, tại hạ xem qua bốn năm lần rồi, đúng là khó mà công phá. Đại nhân nói tự lạc vào mê lộ, ý này là...

Dương Lăng đến cạnh sa bàn, chỉ vào một cửa ải hiểm yếu nói:

  • Nhị vương tử, Phong đại nhân, hai vị nhìn đi. Nơi đây là Đồng Cổ Lĩnh, ba nơi là vách núi cheo leo, khó mà trèo lên, muốn lên núi chỉ có mỗi con đường gập ghềnh này. Kẻ địch dựa vào thế núi mà xây lên nhiều công sự, dễ thủ khó công. Chỗ lầm lần mà ta nói chính là: Vì sao chúng ta nhất định phải tiến đánh các công sự này?

Dương Lăng chỉ điểm nói:

  • Các công sự này đều xây dựng ở thế núi hiểm trở, cũng không làm đường. Đại quân của chúng ta khó mà đi qua, nhưng chọn ra một số tinh binh thân thủ khỏe mạnh có thể lách qua những công sự này. Binh sĩ sẽ xâm nhập đánh thẳng vào sào huyệt, hà tất phải tranh thắng bại với bọn chúng ở cửa núi?

Phải biết rằng công sự xây dựng ở nơi hiểm yếu, ở tận trên cao, dễ dàng trấn giữ, song lại bất lợi khi người Man xuất binh giáp kích cả trước lẫn sau. Hơn nữa trong công sự cũng không có nhiều lính, kẻ nào muốn vào tập kích, giáp công chúng ta cả trước lần sau, nếu dựa vào binh lực cũng không làm dược.

Chu Nhượng Cận hít sâu một hơi, nói:

  • Đại nhân, kế này quá mạo hiểm, dù khinh kị xâm nhập lách qua các cửa ải hiểm yếu này, ta cũng không có cách nào đánh chiếm được các sơn trại sau đó. Đến lúc ấy mấy công sự đó gây trở ngại cho trọng binh di chuyển, binh sĩ xâm nhập không có hậu ứng, chắc chắn sẽ bị quân Man lao đến tiêu diệt.

Dương Lăng khen ngợi:

  • Nói rất đúng, bằng một chi binh sĩ thì không cách nào đánh chiếm sơn trại, cho nên khinh kị của bản quan xâm nhập, tiến công sơn trại là giả, ngăn chặn viện quân sơn trại là thật. Chúng ta không cách nào công phá các công sự hiểm yếu trên núi từ bên ngoài, nhưng có thể leo lên trực tiếp từ hai bên sơn trại.

Ta phái người xông vào trước rồi quay lại giết, công sự trên đỉnh núi hướng về phía chân núi liền mất đi tác dụng lá chắn, số quan sĩ đột kích chắc chắn không ít hơn quân Man trong công sự. Sau khi đoạt được công sự, đại đội trọng binh có thể ung dung thông qua, chiếm sơn trại liền dễ như trở bàn tay.

Phong Tham Chính và Chu Nhượng Cận nghe chiêu "hồi mã thương" của Dương Lăng ngạc nhiên không thôi. Phong Tham Chính nói:

  • Đại nhân, quân ta dù dũng mãnh đến mấy, nhân số khinh binh đột kích xông qua cũng cực kỳ hữu hạn, trước cửa trại không thể có nhiều người như vậy, cũng không thể kéo trọng pháo vào. Lúc này còn muốn phân binh lên núi phản kích công sự, người Man trong sơn trại sao không phản kích cho được? Binh sĩ đột nhập làm thế nào ngăn cản người Man trong sơn trại lao đến, kiên trì đến khi công sự bị công phá, đại đội quan binh đến giúp?

  • Dùng đao thương đối phó dĩ nhiên không thể địch lại.

Dương Lăng thản nhiên nói.

Hai mắt Chu Nhượng Cận sáng rỡ, nói:

  • Đại nhân nói vậy chắc chắn có vũ khí khắc địch rồi phải không?

Dương Lăng mỉm cười, nói:

  • Trước kia bản quan đối phó với bọn mưu phản Đông Xưởng từng sử dụng hỏa tiễn cải tiến theo "Bách Hổ Tề Bôn Tiễn" trong quân, có thể để một người đeo sau lưng mà đi, lực sát thương kinh người, trong thời gian ngắn có thể lấy một địch trăm. Ta sớm đã báo cho Binh Khí cục Nam Kinh ngày đêm chế tạo, đồng thời còn chế tạo khẩn cấp các hỏa khí ngăn chặn và yểm trận như hỏa cầu gai, pháo chùm, pháo tổ ong, pháo phong trần... đủ dùng để ngăn cản viện quân lao ra từ trại Đồng Cổ Lĩnh.

Chu Nhượng Cận nói:

  • Đại nhân, đây là đống hỏa khí ngày hôm trước bắt đầu vận chuyển ra doanh trại phải không? Thảo nào cực kỳ thận trọng.

Dương Lăng gật đầu nói:

  • Đúng vậy, đống hỏa khí đó chuyển đến trong doanh của Lý Sâm, về phần Đồng Cổ Lĩnh, ta phải mời vị Chỉ Huy Sứ đại nhân này đích thân chỉ huy công chiếm rồi.

Chu Nhượng Cận vui vẻ nói:

  • Địa thế Bặc Vương sơn và Đồng Cổ Lĩnh tương tự nhau, chẳng lẽ đại nhân cũng muốn dùng kế sách giống nhau?

Dương Lăng lắc đầu, lại gật đầu nói:

  • Giống nhiều khác ít. Tuy Bặc Vương sơn và Đồng Cổ Lĩnh chỉ khác nhau chút ít, có điều hỏa khí tấn công Đồng Cổ Lĩnh lại không dùng được. Các vị xem đi, Bặc Vương sơn dốc đứng tứ bề, sừng sững như tường thành, dưới chân núi bốn phía không đường, duy có Tây Quan Khẩu và Sáp Kỳ sơn có đường lên.

Giữa sườn núi Hắc Mạo - đỉnh núi chính của Cai Sơn có dựng một sơn trại lớn bằng đá, trại này xây bọc quanh núi, dùng đá lớn làm tường, cao hơn một trượng, kích thước trong thành ước chừng trăm mẫu, gồm cửa trại lớn và cửa trại nhỏ. Trước cửa rộng rãi, tường thành bằng đá ở hai bên kéo dài mấy trăm thước. Nếu đại quân kéo đến dưới tường thành, muốn phá thành mà vào cũng không khó nữa.

Chỗ khó tiến công nhất của núi này không phải ở trước trại, mà chính là đường nhỏ chỉ vỏn vẹn hơn trăm trượng thông đến sơn trại, nơi hẹp nhất chỉ vừa đủ cho một xe đi qua. Mà bên cạnh nó là vách đá trăm trượng, trên vách đá dựng đứng là rừng rậm. Người Man trốn sẵn trong rừng ném cây ném đá xuống, dù bản quan có dùng một trăm ngàn đại quân chất đống cũng không qua được con đường chết chóc hơn trăm trượng này.

Chúng quan viên gật đầu lia lịa, nghĩ thấy chí phải. Quân Minh chiến đấu với người Man nhiều lần thất bại không phải vì chúng dũng mãnh khác thường, mà là do chỗ của bọn chúng nguy hiểm vô cùng, quả thực không ai có khả năng đối phó.

Dương Lăng tiếp lời:

  • Những vách đá này vừa bằng phẳng lại cao, muốn bám cũng không được, phóng tên thì không tới. Người Man nấp ở trên, nếu chúng giết một trăm ngàn binh sĩ của ta, chúng chỉ tổn thất một trăm người, chỉ sợ đều do mệt chết, không có tên nào bị chúng ta giết chết. Chỗ hiểm của núi này là ở đây, nếu trong rừng rậm không có người Man mai phục ngăn chặn ở lối đi này, cái gọi là Bặc Vương sơn thế hiểm khó công có thể phá trong nháy mắt.

Chỉ có điều sơn trại bằng đá xây bọc quanh núi, cho dù phái khinh binh đánh tới dưới thành, trái phải vẫn là vách đá muôn trùng, không thể leo lên, cho nên chiêu "hồi mã thương" dùng để đối phó với Đồng Cổ Lĩnh không thể dùng được ở đây.

Các quan viên khác nghe xong ngơ ngác nhìn nhau. Dựa vào khẩu khí của Dương Lăng, hiển nhiên hắn đã có biện pháp đối phó nhưng lại không chịu tiết lộ. Quan viên văn võ không biết làm thế nào giải quyết vách đá trăm trượng bốn phía, cung tiễn khó phóng đến, linh vượn khó bám vào vách để mà đối phó với người Man trốn trong rừng rậm trên đỉnh núi.

Phùng Tri phủ không nhịn được, hỏi:

  • Đại nhân chuẩn bị đối phó với chỗ hiểm yếu này thế nào?

Dương Lăng hít vào một hơi, thản nhiên nói:

  • Mọi sự đã chuẩn bị, chỉ thiếu "Đông Phong". Bản quan cũng đang đợi, "Đông Phong" hẳn là cũng sắp tới rồi.

"Đông Phong" quả nhiên tới rồi.

Tên này là do Khâm Sai Dương Lăng đặt cho, Quân Khí cục Phúc Kiến sản xuất hỏa tiễn Đông Phong cấp hai đã vận chuyển tới.

Trong cuộc hải chiến tiêu diệt Oa, từng có Thủy sư tướng lĩnh quân Minh đề nghị sử dụng hỏa khí như "Hỏa Long Xuất Thủy". Tuy loại hỏa khí này bay khá xa, nhưng lực đẩy sinh ra từ hỏa dược châm ngòi không cân bằng, tính định hướng quá kém, hơn nữa hướng và tốc độ gió trên biển lại không ổn định. Một khi Hỏa Long phóng ra thì chỉ nghe theo ý trời, hiệu quả thực tế có hạn, Dương Lăng không vừa ý cho lắm.

Có điều hắn cảm thấy hứng thú với loại hỏa tiễn cấp hai nguyên thủy này. Tuy nó căn bản không thể so sánh với tên lửa vận chuyển đa cấp và đạn đạo bắn tàu ở hậu thế, nhưng người Trung Quốc thời Minh có thể to gan tưởng tượng, thiết kế ra loại vũ khí này, hắn cảm thấy sức tưởng tượng này càng thêm đáng quý, cho nên bảo lưu lại thiết kế nghiên cứu loại hỏa khí này của Quân Khí cục.

"Hỏa Long Xuất Thủy" là một loại hỏa tiễn dùng ở trên bờ và dưới nước. Thân rồng chế tác từ ống trúc mỏng dài năm thước, đầu ống gắn đầu rồng bằng gỗ, cuối ống là đuôi rồng bằng gỗ. Bên trong thân ống trang bị các nhánh hỏa tiễn, ngòi nổ đưa ra ngoài từ lỗ bên dưới đầu rồng. Trước sau thân rồng tổng cộng trang bị bốn ống phóng hỏa tiễn, nhìn qua tựa như phi long có bốn cánh.

Ngòi nổ của hai hỏa tiễn trước sau Hỏa Long được xoắn vào nhau, bộ phận dưới ống hỏa dược phía trước hỏa tiễn và ngòi nổ đưa ra từ đầu rồng, liên kết với nhau. Khi phóng ra, trước tiên châm lửa bốn ống hỏa dược dưới thân rồng để đẩy Hỏa Long bay về phía trước. Sau khi ống hỏa dược cháy hết, thần cơ hỏa tiễn trong thân rồng bén lửa bay ra bắn về phía kẻ thù. Loại hỏa tiễn này đã ứng dụng nguyên lý mắt xích, song song của hỏa tiễn, cự ly phóng ra có thể đạt đến hơn ba bốn dặm.

Ngoài ra còn có các hỏa khí đánh xa như "Thần Hỏa Phi Nha", "Phi Không Chấn Thiên Lôi". Thần Hỏa Phi Nha có đầu, đuôi và cánh chim, bay đến trăm trượng. Bên trong chứa thuốc nổ, dưới bụng cũng buộc chặt bốn ống hỏa tiễn để trợ lực. Những hỏa khí này phần lớn chưa đủ năng lực nhắm chính xác vào con người và mục tiêu cố định.

Đầu, thân và đuôi rồng tinh xảo của "Hỏa Long Xuất Thủy" vốn có tác dụng trang trí nhiều hơn, thực ra sẽ ảnh hưởng tới tính định hướng của hỏa tiễn và sinh ra lực cản khá lớn. Tuy cánh chim "Thần Hỏa Phi Nha" có mục đích tăng cường tính ổn định khi bay, song hình dạng cũng cực kỳ giống cánh chim thật, chẳng những chế tác tốn công tốn thời gian, nhưng vì chạy theo hình dáng nên tính ổn định cũng không tốt lắm.

Khi Dương Lăng đốc thúc nghiên cứu chế tạo pháo thần công ở Quân Khí cục thì bắt gặp các hỏa khí này. Hắn yêu cầu bỏ hết những cái tên mỹ miều của chúng, dựa theo tầm bắn khác nhau và tác dụng chủ yếu của hỏa khí mà thống nhất đặt tên hỏa tiễn Đông Phong số một, số hai, số ba.

Đồng thời, hắn sai chuyên gia hỏa khí Trịnh lão tiến hành cải tạo các bộ phận trang trí không có tính thiết thực. "Hỏa Long Xuất Thủy" bây giờ là Đông Phong số một, toàn thân giống như giọt nước, tầm bắn xa nhất. Bụng rồng vốn dĩ cần mỹ quan chỉ có thể trang bị bốn mũi tên, hiện tại tăng tới bảy nhánh mũi tên, tác dụng từ sát thương đổi thành phóng hỏa là chính. Trong mũi tên có hỏa dược, bên ngoài bọc nhiều lớp giấy lụa rồi bôi dầu trơn, khi châm ngòi gió mạnh không tàn, dưới nước không lụi.

"Thần Hỏa Phi Nha" được cải tạo thành Đông Phong số hai vẫn có bụng to như cũ, tựa như một tàu con thoi, cánh chim vẫn giống thật, nhưng loại bỏ phần lông vũ đính vào, trở nên phẳng như giấy. Trong bụng chim chứa vật dẫn cháy dễ bắt lửa, đồng thời trộn thêm thạch tín, lân và những thứ có mùi khét cháy.

Khói lửa trong rừng rậm khó tắt, loại hỏa tiễn này phóng thích rất nhiều khói độc, cộng thêm hỏa tiễn bay tán loạn khắp nơi, trong rừng rậm nguyên thủy lá khô như bùn, dày đen vài thước...

Du Kích tướng quân Thôi Quý đứng trước Bặc Vương sơn, nhìn ngọn núi tối đen sừng sững như ngươi khổng lồ đánh giá một lúc lâu, sau đó gật đầu nói:

  • Tốt lắm, thế núi này phần lớn dốc đứng như gương, chọc thẳng lên từ mặt đất. Tuy nguy hiểm vô cùng, nhưng thuận tiện phóng hỏa, phía dưới có vách đá cao chừng một trăm trượng, dù thế lửa trên núi lớn đến đâu cũng rất khó ảnh hưởng các núi còn lại, bằng không sẽ gây rất nhiều phiền toái.

  • Bắt đầu đi!

Trong bóng đêm, từng nhánh hỏa tiễn vọt lên rực sáng phóng về phía ngọn núi tối đen kia, chỉ chốc lát tựa như một đám mây đen bao trùm đỉnh núi. "Mây đen" càng tụ càng dày đặc, rốt cuộc che kín cả vầng trăng cong như móc câu.

Gần nửa canh giờ sau, bầu trời đêm đỏ rực, lửa cháy thiêu trời. Đứng nhìn từ xa, đừng nói là người nấp trên đỉnh núi, ngay cả đá cũng bị thiêu rụi, dù có đào sâu ba thước cùng đừng mơ tìm được chỗ nào ẩn thân.

Ánh lửa phản chiếu dưới chân núi sáng lòa, tin chắc chỉ cần đến trước núi, chỉ e đã sáng như ban ngày.

  • Đại nhân, vì sao nhất định phải tiến công vào buổi tối?

Dù gì cũng đã canh ba, nhìn lửa khói được một lúc lâu, phó tướng Phan Đông ngáp một cái, chán chường hỏi.

Thôi Quý mặt đầy rỗ cười hì hì, nói:

  • Lão đệ, đệ không hiểu đâu, đêm trăng lặn giết người, trời nổi gió phóng hỏa, giống như tìm kỹ nữ vậy, thân phận như chúng ta, để ý chuyện này làm gì?

Y nắm thật chặt chiến bào, cao giọng quát:

  • Các huynh đệ, tiến công lên núi!

  • Giết đi!

Bọn lính hô hoán, dưới sự chiếu rọi của ánh đuốc lớn nhất trong lịch sử, đại quân đường đường chính chính lao về phía sơn trại...

Lăng Tiêu sơn xây dựng vào những năm cuối Nam Tống, năm Bảo Hữu Ất Mão (tức năm 1225), quân Nguyên chiếm Vân Nam trước rồi vòng qua tiến công Tứ Xuyên. Để ngăn chặn quân Nguyên vào Tứ Xuyên, quân Tống ở Nhung huyện đã xây dựng tòa thành ở các nơi hiểm trở. Vì muốn có nơi đóng quân trữ lương thực, ra đánh vào thủ nên xây dựng Lăng Tiêu thành trên Lăng Tiêu sơn.

Lăng Tiêu thành và Điếu Ngư thành ở Hợp Xuyên, Lăng Vân thành ở Nhạc Sơn, Đông Cao thành ở Nghi Tân đều là các tòa thành trọng yếu chống đỡ quân Nguyên. Sau đó vì tướng trấn thủ Nhạc Sơn, Nghi Tân Thủ đầu hàng quân Nguyên, Lăng Tiêu thành mới bị công phá.

Sau khi bên ngoài tạm yên ắng, Tống Tiểu Ái và Ngũ Hán Siêu liền suất lĩnh Lang Binh lẳng lặng đến Lăng Tiêu sơn. Lúc này nhiệm vụ thanh trừ ở mọi nơi gần như kết thúc, nhân mã bắt đầu hướng đến các chỗ tập kết như Đồng La Lĩnh, Đô Đô trại, Lăng Tiêu thành.

Ngũ Hán Siêu vừa đích thân dẫn Lang Binh giỏi leo núi lên không ngừng thâm nhập trong núi, tìm hiểu tình hình gần Lăng Tiêu thành, vừa chờ đợi nhân mã tiếp viện Dương Lăng phái tới Lăng Tiêu sơn.

Đỉnh của Lăng Tiêu sơn cao chót vót như sắp chạm trời, đường lên núi chỉ có hai lối nhỏ chật hẹp. Một lối là từ "Đoạn Cổ Nham" thông đến cửa trại mới, lối còn lại là từ "đập Long Bi" đi qua bốn mươi tám khúc ngoặt thông đến cửa trại cũ.

Chỗ nối tiếp giữa "Đoạn Cổ Nham" và núi đất phía sau có một khe nứt rộng hơn bảy thước. Trên khe nứt có cầu gỗ, người đi qua cầu nhìn xuống khe nứt đáy sâu khó lường, khiến người ta run như cầy sấy, tay chân mềm nhũn. Đặt một đạo binh ở đây đúng là khổ sở cùng cực, mà phía trước cửa trại cũ bố trí nhiều lớp phòng vệ, cửa hiểm khắp chốn, muốn công phá cực khó.

Tướng trấn thủ nơi này là A Áp - huynh đệ của tù trưởng A Đại. Kẻ này sức mạnh vô cùng, hữu dũng vô mưu, tính tình tàn bạo, lần này chưa từng công khai làm loạn, trước đây thường xuyên dẫn người xuống núi quấy nhiễu, cướp bóc của cải, cường bức nữ nhân, bị người ta gọi A Áp. Bởi vì gã càn quấy ngông cuồng, những năm nay dân chúng gần đó đều tháo chạy, mười nhà thì trống chín nhà, hoang vắng vô cùng.

Nhưng Lăng Tiêu thành của gã thế hiểm khó công, bốn mươi tám khúc ngoặt giống như lạch trời khiến người ta không biết làm sao. Tống Tiểu Ái, Ngũ Hán Siêu cố ý chỉ phái một đội quân nhỏ tiến công, liên tiếp bị đánh về hết mấy lần. Hai người cũng không vội, lần nào cũng tỏ vẻ binh lực không đủ không có tự tin, bị thất bại liền lui binh, qua hai ngày nữa lại đến phá rối. Cứ đến phá đám như vậy nhiều lần, A Áp thấy mãi cũng quen.

Hôm nay, sau khi chuẩn bị đầy đủ, Tống Tiểu Ái rốt cục chuẩn bị động thủ. Mấy ngày nay sớm tối ở bên Ngũ Hán Siêu cùng nhau lãnh binh, hai người dường như lại trở về những ngày tháng chống chọi với giặc Oa ở Giang Nam trước kia. Tuy việc ngăn cản của lão Ngũ trước giờ vẫn là tâm bệnh giữa hai người, song ngoài mặt hai người vẫn lảng tránh chuyện đó, gần như hoàn toàn thân mật như ngày xưa.

Ngũ Hán Siêu dẫn theo hơn ba trăm Lang Binh được chọn kỹ. Ai nấy cũng ăn mặc rách rưới, áo vải da thú, bề ngoài giống với người Đô Chưởng Man. Hơn nữa họ còn đóng giả nam nữ già trẻ, đủ mọi thân phận, còn binh khí thì cất ở nơi kín đáo.

Muốn chiếm Lăng Tiêu thành, sau núi không thể công, trước núi đường lại gập ghềnh, khắp nơi đều là vách đá lởm chởm như nanh sói. Nếu họ muốn xông thẳng qua bốn mươi tám khúc ngoặt thì không thể nào.

Ngũ Hán Siêu tự mình dẫn trinh sát âm thầm điều tra, phát hiện luôn có dân chúng người Đô Chưởng Man chạy trốn lên núi, nhiều thì mấy trăm, ít thì mấy chục, vì thế mới nảy ra kế lừa thành này. Tầng tầng lớp lớp cửa ải trên Lăng Tiêu thành không tiện tiến công, nhưng nếu binh sĩ không đến trước thành, căn bản miễn bàn đến chuyện công thành.

Ngũ Hán Siêu mạo hiểm dùng mấy trăm dũng sĩ lừa qua cửa ải thứ nhất, coi đây là cứ điểm yểm hộ đại quân lên núi. Tuy hơn ba trăm người này được chọn lựa kỹ càng, nhưng áp lực mà họ gánh vác vô cùng lớn. Phải biết từ trên Lăng Tiêu thành nhìn xuống có bốn mươi tám khúc ngoặt hiểm yếu khó đi, có thể trông thấy binh mã dưới chân núi từ đằng xa, cho nên đại quân của Tống Tiểu Ái căn bản không thể theo sát phía sau ứng chiến mọi lúc.

Nếu lừa thành thất bại, hơn ba trăm người rất có khả năng chôn thây toàn bộ trước Lăng Tiêu thành. Cho dù lừa mở được cửa thành, lập tức phóng tín hiệu, đại quân của Tống Tiểu Ái muốn chạy đến trước thành cũng cần thời gian rất lâu. Trong thời gian đó đoạt quan ải chém giết, ngăn chặn người Man từ quan ải thứ hai lao đến đều phải trông cậy đội ngũ mấy trăm người của Ngũ Hán Siêu.

Tống Tiểu Ái vận tướng bào quân Minh, lẳng lặng nhìn bọn họ chuẩn bị thỏa đáng. Nàng im lặng đến trước mặt Ngũ Hán Siêu, thấp giọng nói:

  • Tự mình cẩn thận chút, bảo trọng.

Ngũ Hán Siêu nhìn ánh mắt quan tâm của nàng, bỗng nhiên mỉm cười. Y nhớ tới lần đầu hai người bình định giặc Oa, vì đánh bại Đông Hoa Lộc chiếm núi ngoan cố chống cự, khi y đang leo vách ở sau núi, Tống Tiểu Ái cũng có ánh mắt ân cần như vậy. Nhưng giờ đây trong đáy mắt nàng lại chất chứa tình cảm sâu tựa biển cả mà khi đó không có.

Nàng vẫn là nàng, nàng cũng không phải là nàng, nàng trưởng thành rồi. Y vẫn còn nhớ rõ Tống Tiểu Ái đanh đá chỉ bảo mình giống như nô lệ nhà nàng, không nói lý lẽ lệnh cho binh sĩ Lang Binh tiến công lên núi, liều chết bảo vệ an toàn cho y. Còn lần này, cho dù nguy hiểm hơn nhiều, nàng càng lo lắng hơn, nhưng không truyền đạt mệnh lệnh như vậy nữa.

Nàng đã biết dùng lý trí khắc chế cảm xúc của mình, hiểu được thế nào là tôn trọng người khác, hiểu được đạo làm tướng.

Ngũ Hán Siêu gật đầu rồi yên lặng xoay người. Y vung tay lên, dẫn theo hơn ba trăm dũng sĩ xuất phát.

Tống Tiểu Ái nhìn theo bóng dáng bọn họ biến mất trong khe núi, lúc này nàng mới xoay người lại suất lĩnh các tướng trở về soái trướng. Nàng nghiêm túc quay sang nói với chúng tướng lĩnh các bộ:

  • Chư vị tướng quân, Lăng Tiêu thành có chiếm được hay không thì phải xem hôm nay. Cận Thủ bị phụ trách đánh nghi binh sau núi, nhưng thấy trước trại bốc khói thì lập tức tạo thanh thế lớn kéo sự chú ý của người Man, giảm bớt áp lực của đội bạn trước trại, các ngươi lập tức xuất phát!

Cận Thủ bị chắp tay nói:

  • Mạt tướng tuân lệnh!

Rồi y lập tức dẫn theo nhân mã của mình chọn đường chạy tới Đoạn Cổ Nham.

  • Bộ phận của Lâm tham tướng phụ trách chuẩn bị dụng cụ công thành như dây thừng móc câu, thang treo thang gỗ. Khi bản quan dẫn binh sĩ lên núi gấp rút tiếp viện thì ngươi lập tức hành động, mau chóng lên núi. Việc cấp thiết nhất của ngươi chính là thời gian, tới càng nhanh càng tốt, đừng cho kẻ địch có cơ hội nghỉ ngơi.

  • Mạt tướng tuân niệnh!

Lâm Tham tướng cũng lĩnh mệnh lui ra.

Tống Tiểu Ái chỉ huy quả quyết, rất có uy đại tướng, nàng lại nghiêm nghị phân phó:

  • Trần phó tướng...

  • Tống đại nhân!

Cửa kêu rầm một tiếng cắt ngang mệnh lệnh của Tống Tiểu Ái. Nàng ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn về phía cửa, chỉ thấy một vị quan râu dài quá bụng, mắt hổ mày rậm. Tuy lão vận bào phục quan văn, song uy phong sát khí còn mạnh hơn vài phần so với các võ tướng trong tướng.

  • A! Nhạc phụ tương lai đến rồi.

Tống Tiểu Ái giật mình, hàng lông mày nhướn lên, vẻ mặt tươi cười ngọt ngào, khéo léo nói:

  • Ngũ đại nhân, ngài... chuyển lương thảo đến rồi sao?

  • Ừ! Chuyển lương thảo đến rồi!

Ngũ Văn Định hậm hực vào soái trướng đứng chống nạnh, không thèm thi lễ, vẻ mặt tức giận cực kỳ.

Nhưng Tống Tiểu Ái lại vui mừng trong lòng. Mấy lần Ngũ Văn Định chuyển lương thảo tới dây, Ngũ Hán Siêu đều sợ hãi trốn tránh, còn ông ấy chuyển lương xong liền rời khỏi, căn bản không hề tiếp xúc với nàng, hiếm khi ông ấy chịu vào trướng nói chuyện với nàng như hôm nay.

Tống Tiểu Ái vội hỏi:

  • Bản quan đang thảo luận quân tình đại sự, Ngũ đại nhân có chuyện quan trọng cần thương lượng sao?

  • Quân tình đại sự?

Ngũ Vãn Định càng nghe càng giận, nói:

  • Hạ quan đang muốn hỏi đại nhân định bàn quân cơ đại sự tới khi nào, hạ quan còn phải chuyển lương thảo xuống chân núi Lăng Tiêu vài lần nữa.

Tống Tiểu Ái mở to mắt, ngạc nhiên hỏi:

  • Ngũ đại nhân, ngài có ý gì?

  • Ý gì hả? Hừ!

Ngũ Vãn Định tức giận nói:

  • Tiến độ tiêu diệt phỉ tặc của quan quân các nơi cực kỳ nhanh chóng, nhưng còn ở đây? Nghị sự suốt ngày, đánh nghi binh, đến nay vẫn chưa đánh được trận nào đàng hoàng, lãng phí không ít lương thảo, các ngươi nghĩ vận chuyển lương thảo đến đây dễ lắm à? Linh quân nhu của ta chuyển lương mấy lần đều bệnh hết cả đám, trượt chân rơi xuống vách đá hết bảy người, vậy mà các ngươi vẫn đang thương nghị sao!

Lão Ngũ vốn xem thường nữ nhân cầm binh. Tính ông ăn ngay nói thẳng, không ở trong quân của Tống Tiểu Ái nên không hiểu toàn bộ kế hoạch, cho nên đương nhiên cho rằng Tống Tiểu Ái yếu đuối sợ đánh. Đi một chuyến chuyển lương đến đây, trong lòng ông lại tích tụ thêm một phần oán khí.

Vì đường núi hư hỏng nên lần chuyển lương này tổn thất rất lớn, còn có bốn người bị ngã chết. Không ngờ vừa mới chuyển lương vào doanh đã nhìn thấy một đội quan binh ra doanh, sau khi hỏi hắn mới biết Cận Thủ bị đã lãnh binh đến Lăng Tiêu thành đánh nghi binh.

Lần này lão Ngũ tức giận, còn đánh nghi binh nữa? Phải đánh đến khi nào mới được? Do đó lão Ngũ xông vào soái trướng khiển trách Dung soái.

Tống Tiểu Ái vội giải thch:

  • Ngũ đại nhân, ngài có điều không biết...

  • Ngươi tuy là chủ soái, đừng quên trong bảy điều quân pháp của Khâm Sai đại nhân có nói ai sợ địch chạy trốn sẽ trảm. Bản quan trở về Tự Châu sẽ bẩm báo tình hình nơi này với Khâm Sai, cả đám các ngươi sợ đánh giặc, làm hỏng thời cơ chiến đấu, ngồi xem người Man hoành hành, hao phí quân lương, làm gì có lý này.

Tống Tiểu Ái há hốc mồm, không chen vào được, trong lòng cũng từ từ bốc hỏa. Nàng chưa kịp nổi cơn, Trung Quân Quan đã tức giận.

Chi quân đội này chỉ là tạm thời tập trung, chư tướng dưới trướng lại thuộc các bộ phận khác nhau, Trung Quân Quan cũng là tạm thời phái tới, y không biết ông lão rậm râu chuyển lương này là ai. Thấy ông ta la lối, trách cứ chủ soái và các vị tướng lĩnh trong soái trướng, Trung Quân Quan lập tức ra mặt.

Y chỉ vào mũi của Ngũ Văn Định quát:

  • Ông muốn nói quân pháp à, vậy biết mười bảy luật cấm năm mươi bốn điều trảm chú? Ai nhiều lời oán hận, nổi giận với chủ tướng, trảm! Ai tụ tập bàn luận, lén vào trướng, trảm! Ai thăm dò địch không kỹ, làm loạn quân ngũ, trảm! Quan chuyển lương to gan, làm loạn quân ngũ, chỉ trích thượng quan, phạm nhiều điều luật. Người đâu, áp giải lão ra ngoài, trảm!

Quan binh đứng hai bên đã sớm mất kiên nhẫn, họ tiến lên khống chế hai tay của Ngũ Vãn Định rồi lôi ra ngoài.

"Này!", Tống Tiểu Ái giơ tay hô một tiếng rồi nhìn hai bên, không ai lên tiếng.

Nàng trừng to mắt, sau đó lại trợn lên:

  • Cả đám ngu ngốc, tại sao không ai hô đao hạ lưu nhân?

  • Đao hạ lưu nhân! Khoan hãy động thủ!

Một tiếng hô bất chợt truyền ra từ trong soái trướng.

Người lên tiếng chính là chủ soái ba quân Tống Tiểu Ái Tống đại nhân.

Bạn đang đọc Ngược Về Thời Minh của Nguyệt Quan
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Cập nhật Cẩuca
Lượt thích 5
Lượt đọc 226

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.